Nức tiếng từ… chuột luộc
Làng Tú Đôi (Kiến Quốc – Kiến Thụy) vốn dĩ nổi tiếng bởi nhiều thứ, nào nghề đánh bắt thủy sản nước lợ với những quái sản như tôm rảo, rươi, cá lác, cáy hôi… đến đặc sản một thời hút khách như rắn, ba ba, nhệch… nhưng trong số ấy chẳng món nào sánh được với thịt chuột.
Anh Đào Quang Linh – một “chuột thủ” kể rằng: “Chẳng biết người làng Tú có tục ăn thịt chuột từ bao giờ, chỉ biết nghe ông bà kể lại là tục này có từ lâu lắm rồi, mà duy nhất chỉ là món luộc…”.
Anh Linh cũng hay đi đây đi đó, nghe người ta thêu dệt đủ chuyện về thịt chuột làng mình mà có lúc tức cười.
Rằng người làng Tú mê chuột đến nỗi, đám cưới mà không lo được món này thì xem như không có cỗ, rằng nếu người ta bắt được chuột dù già cỗi lụ khụ hay mình trần đỏ hỏn đều nhúng nước sôi thả vào mồm nhai dau dáu… rồi thì “nem chuột”, “gỏi chuột” và cả “giò chuột” cho ngày tết nữa, có lẽ thế nên từ lâu câu ca “Làng Tú anh hùng nuôi chuột đỏ, khoai lang bóc bỏ nhắm với chuột con” đã được truyền tụng.
Kể lại những chuyện này, anh Linh cười khoái chí: “Người ta cứ đồn thế, nhưng nghĩ cũng hay, nhờ vậy mà người làng Tú nổi tiếng”. Theo anh Linh thì mang tiếng mê thịt chuột nhưng thực ra dân làng Tú khảnh ăn lắm, mỗi năm chỉ có hai tháng vụ lúa mùa (tháng Chín và Mười) món này mới được lên mâm, và duy nhất chỉ có loại chuột đồng.
Vì mùa này thời tiết thay đổi, chuột thay lông ăn nhiều thóc tích mỡ chống rét nên con nào cũng béo, hơn nữa vì động ruộng nên chúng kiếm ăn xong là chỉ ở hang, mượt mà sạch sẽ. Chuột bắt về, nhúng vào nước nóng vừa đủ, lột sạch lông, mổ bụng moi nội tạng, cắt “quả hoi” hai bên “háng”, luộc chín vào cuối giờ chiều, rồi hong trên manh tre để qua đêm.
Hôm sau thịt chuột đanh lại, chặt từng miếng vuông vức bày ra đĩa, thái lá chanh tươi rắc lên trên, muối trắng dầm ớt đỏ, rượu nếp cất từng chai… ấy mới là truyền thống.
Làng Tú tiếng thế nhưng không phải ai cũng giỏi săn chuột. Cả làng hàng nghìn hộ nhưng chỉ có vài chục nhà kiếm sống được nhờ nghề này. Khi vụ chuột đến, nhất là những năm thịt chuột đắt đỏ, thì mỗi buổi ra đồng kiếm được vài kg đã được tiền triệu.
Bởi thế, nên người giỏi nghề săn chuột như anh Linh, dù quanh năm bận bịu đi làm thợ hồ thiên hạ, mùa chuột vẫn buông “bay” về với bộ dụng cụ riêng của mình. Đơn giản chỉ là một cây thuổng, một chiếc “sồng”, lưới “bát quái”… với riêng Linh còn có thêm một vài con chó, được huấn luyện đặc biệt chỉ để đi ngửi xem hang nào có “hàng” thì sủa to báo cho chủ biết.
Đã mấy vụ rồi năm nay tôi mới lại bố trí được thời gian về với làng Tú, theo anh bạn Linh ra đồng săn chuột. Hai chúng tôi cỡi xe máy, chạy thẳng ra tận chân đê.
Hôm nay, Linh không đem theo chó săn, vì anh bảo chỉ đến khi lúa thu hoạch hết, chuột ở lì trong hang mới cần đến thứ bảo bối ấy. Linh còn giải thích: “đồng gần làng cũng nhiều chuột, nhưng sợ lẫn chuột nhà ăn không sạch, phải đi xa thế này mới thực sự có chuột ngon”.
Đang rảo bước trên một bờ thửa, chợt Linh dừng lại, anh nhảy xuống mép ruộng chỉ vào cái hang miệng chỉ to chừng cái cốc, khô ráo nhưng có nhiều vết chân chuột đi về cào chồng lên nhau.
Lũ chuột cũng khéo ngụy trang bằng một nhúm rơm được cắn vụn, khéo thế nhưng với con người thì thật đúng là “lạy ông tôi ở trong này”. Linh phân tích: “Bọn này khôn lắm, miệng hang nhỏ nhưng bên trong nhiều ngách rộng, hang càng nhiều rơm rác càng sẵn chuột…”.
Chúng tôi bắt đầu đào, mới bổ vài nhát thuổng đã thấy phía trong hang được chia làm nhiều ngách. Đào đến đâu Linh chỉ đến đấy: “Có 3 hướng chính, hướng về tổ đẻ thường chạy lên trên, hướng tổ chính chạy thẳng, hướng dài nhất chạy xiên để ra cửa thoát nạn…”…
Linh đang thuyết giáo, chợt cậu ta cắm phập lưỡi thuổng chặn cửa hang chính, rồi nhảy bổ sang bên phải: “Tí nữa thì hỏng…”. Thì ra bên ấy là cửa thoát nạn, được chuột đào ẩn sau một tảng đất lớn.
Linh áp tai xuống đất nghe rồi reo lên: “Vớ bẫm rồi!”, và anh lấy chiếc “lưới bát quái” đan bằng nilon có khung vuông mỗi cạnh dài khoảng hai gang tay, gắn với chiếc rọ mà Linh gọi là “sồng” bằng tre phía cuối, chặn hướng cửa hang.
Linh giục tôi vơ bùi nhùi khô nhóm lửa ở cửa chính, khi ngọn lửa bùng lên lại lấy rơm tươi phủ vào, tạo thành một luồng khói quánh đặc. Từng luồng khói được thổi theo chiều cửa hang, vài phút sau, có tiếng “chít, chít” phía trong, một con, hai con, rồi liên tục một đàn chuột sặc khói bám nhau chạy tọt vào trong lưới “bát quái”.
Linh nhanh chóng túm lấy khung đầu lưới nhấc lên vẩy mạnh, cả đàn chuột rơi tõm vào trong “sồng”.
Linh bảo: “Đã bắt cho bằng hết, con nào nhỏ không ăn được đập chết, chứ để nó sống đẻ nhiều ăn hết lúa bà con…”. Lạ thế, đã đi săn chuột lại không muốn có nhiều chuột? Bản tính chất phác, trách nhiệm của người nhà nông đáng quý là thế.
Lúc này, Linh đang bổ đất đắp lại chỗ bờ vừa bị đào, dùng chân nện chặt lấp vào hang chuột, lại một động tác đầy trách nhiệm, giải tỏa cho tôi nỗi nghi ngờ bấy lâu về việc “phá bờ bắt chuột” của người làng Tú. Đến trưa, qua gần chục lần hì hục đào, hun, hai chúng tôi đã bắt được lưng lửng “sồng” chuột, dùng tay ướm thử cũng phải được chừng 5 kg.
Đang “hăng máu” tôi muốn đi săn tiếp, nhưng Linh giục tôi về. Đến nhà, Linh quăng “sồng” chuột vào góc bếp: “Bọn này để chiều làm thịt, mai mới bán được”, nói rồi anh lên nhà hạ chiếc mê tre treo trên gác xuống.
Trước mắt tôi gần hai chục con chuột đã luộc sẵn bày ra ngồn ngộn, vì đã gặp vài lần nên tôi không còn cảm giác rờn rợn trước những bộ răng nhe ra trắng ởn nữa. Loạt chuột này khá đều, mỗi con chỉ nặng khoảng lạng rưỡi, là loại được cho là ngon nhất, chắc là Linh cũng có nhã ý để phần khách.
Linh nhấc điện thoại gọi thêm mấy người bạn nữa, bữa tiệc toàn chuột, rượu vào lời ra rôm rả. Sau bữa tiệc đặc sản, tôi ngấm men nằm ở nhà Linh ngủ một mạch đến 3 giờ chiều.
Tỉnh giấc thì đã thấy Linh lúi húi với “sồng” chuột ngoài ao, anh đang ngâm cho chuột yếu lả và ngấm mềm lông để chuẩn bị làm thịt.
Tôi chia tay anh và tranh thủ phóng ra chợ chiều làng Tú. Ngay lối cổng vào đã thấy bày nhan nhản chuột luộc, một chủ mẹt chuột hồ hởi: “Mấy năm trước đắt ngang thịt bò, năm nay thịt bò gần ba trăm mà chuột chỉ bằng một nửa…”.
Tuy thế nhưng chị này cho biết, dù giá hạ thì nghề săn chuột cũng là cứu cánh cho nhiều gia đình trong làng. Chẳng hạn như gia đình ông Nguyễn Sỹ Thuấn và bà Đào Thị Tuyền, cứ chồng đi săn, vợ đem bán, mỗi vụ cũng kiếm được vài chục triệu đồng, gấp mấy lần cấy lúa.
Liếc nhìn sơ sơ, cả khu cổng chợ có gần 20 mẹt chuột, ước nhanh gần một tạ, cũng tương ứng gần chục triệu đồng. Mới thấy, dù thiên hạ có nghèo thì “kinh tế chuột” cũng là nét riêng của người làng Tú.
Gia Lê
Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam theo lời mời của Chủ tịch…
Chiều 26/11, Công an huyện Vĩnh Bảo thông tin, sáng 26/11, khách hàng Nguyễn Quốc…
Chiều 26/11, tại Hải Phòng, Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) phối hợp UBND…
Sáng 26/11, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Tổ trưởng Tổ…
Thuộc khuôn khổ Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo quốc gia - Techfest Việt Nam…
Sáng 26/11, UBND quận Ngô Quyền tổ chức Hội nghị trao Quyết định giao đất…
This website uses cookies. See Our policy to learn more.
Read More