Print Thứ Năm, 11/07/2019 12:22

NGHỊ QUYẾT 45-NQ/TW, NGÀY 24/01/2019 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045


Kính thưa các đồng chí đại biểu!

Thưa toàn thể các đồng chí!

Ngày 24/01/2019 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Theo phân công của Thường trực, Ban Thường vụ Thành ủy, sau đây tôi sẽ giới thiệu, quán triệt tới hội nghị về những nội dung chủ yếu của Nghị quyết quan trọng này. Nội dung quán triệt gồm 2 phần:

Phần thứ nhất: Về bối cảnh và quá trình chuẩn bị, ban hành Nghị quyết.

Phần thứ hai: Những nội dung chủ yếu và mới của Nghị quyết.

 

Phần thứ nhất

VỀ BỐI CẢNH VÀ QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ, BAN HÀNH

NGHỊ QUYẾT 45-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

I- BỐI CẢNH

Như các đồng chí đã biết, ngày 05/8/2003, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tiếp đó, sau 10 năm triển khai thực hiện, ngày 10/10/2013, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Kết luận số 72-KL/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX.

Đây là những văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa tạo ra động lực mới và định hướng phát triển thành phố trong suốt 15 năm qua.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị, (nhất là sau Đại hội XV Đảng bộ thành phố), Hải Phòng đã đạt được những kết quả khá toàn diện, mang tính đột phá trên hầu hết các lĩnh vực, trở thành một trong số ít địa phương luôn dẫn đầu cả nước về tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém mà nếu không sớm khắc phục, có thể sẽ làm cho tốc độ phát triển của thành phố chậm lại. Trong khi đó, yêu cầu phát triển thành phố trước mắt và trong tương lai đang đặt ra rất quyết liệt. Hải Phòng không chỉ phát triển tự thân và phát triển vì mình mà Hải Phòng còn có trách nhiệm lớn lao với khu vực và cả nước do vị trí địa chính trị, địa kinh tế của thành phố đem lại. Đứng trước yêu cầu đó, việc Trung ương phải có một Nghị quyết mới thay thế cho Nghị quyết 32-NQ/TW là cần thiết.

Chính vì vậy, tại buổi làm việc của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Thành ủy Hải Phòng (ngày 15/11/2017) về kết quả 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ thành phố, Thành ủy đã chủ động kiến nghị và được đồng chí Tổng Bí thư đồng ý về chủ trương, giao Văn phòng Trung ương đề xuất việc tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW trong chương trình công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2018. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị xem xét ban hành Nghị quyết mới về Hải Phòng.

Đó là vài nét về bối cảnh ra đời Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.

II- QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ VÀ BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT

Ngày 06/3/2018, Ban Bí thư đã ban hành Quyết định 131-QĐ/TW về việc thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW, phân công đồng chí Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương làm Trưởng Ban Chỉ đạo.

Ngày 20/3/2018, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Quyết định 862-QĐ/TU thành lập Ban Chỉ đạo của Thành ủy tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX.

Trong 9 tháng (từ tháng 3 đến tháng 12/2018), Thành ủy đã chỉ đạo các các cấp, các ngành tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW làm cơ sở để xây dựng Đề án. Trên cơ sở kết quả tổng kết của các cấp, ngành, Ban Chỉ đạo của Thành ủy đã phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo Trung ương xây dựng Đề án tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Đề án tổng kết Nghị quyết 32-NQ/TW đã được 16 ban cán sự đảng, các bộ, ban ngành Trung ương tham gia ý kiến. Ban Kinh tế Trung ương và Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã chủ trì tổ chức 15 hội nghị, hội thảo với các nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia đầu ngành, các đồng chí nguyên lãnh đạo thành phố qua các thời kỳ để hoàn thiện Đề án.

Qua thống kê, trước khi trình Bộ Chính trị, Đề án đã qua 09 lần dự thảo, Ban Chỉ đạo Trung ương họp 3 lần để cho ý kiến.

Ngày 13/12/2018, tập thể Bộ Chính trị đã trực tiếp nghe Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng báo cáo Đề án. Tại Hội nghị, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị đều phát biểu ý kiến, nhất trí cao với Báo cáo chung và ủng hộ đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về Hải Phòng.

Đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư đã phát biểu kết luận rất sâu sắc, khẳng định những thành tựu đã đạt được của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân thành phố, cũng như chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Tổng Bí thư đã khẳng định rõ vị thế của Hải Phòng, “Hải Phòng phát triển thì đất nước sẽ phát triển”, “Việc phát triển Hải Phòng không chỉ là của Hải Phòng mà còn là trách nhiệm của Trung ương và các địa phương khác”.

Ngày 24/01/2019, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước thay mặt Bộ Chính trị đã chính thức ký ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Như vậy, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/01/2019 là kết quả của một quá trình chuẩn bị hết sức công phu, tổng kết sâu sắc cả về thực tiễn và lý luận. Trên cơ sở tổng kết sâu sắc 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, xem xét toàn diện các yếu tố trước mắt và lâu dài, các mối quan hệ giữa thành phố với các địa phương khác trong vùng và cả nước, với Trung ương ,… từ đó xây dựng Nghị quyết mới về phát triển thành phố Hải Phòng.

Trong quá trình xây dựng Đề án, Ban Thường vụ Thành ủy đã chủ động phối hợp chặt chẽ với Ban Kinh tế Trung ương giúp Bộ Chính trị từ khâu tổ chức tổng kết Nghị quyết 32-NQ/TW và xây dựng Đề án ban hành Nghị quyết mới.

Có thể khẳng định, Nghị quyết 45-NQ/TW ra đời không chỉ là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị mà còn là kết quả của sự chủ động, sáng tạo của Thành ủy trong việc phối hợp tham mưu với Trung ương, Bộ Chính trị đối với quá trình xây dựng và phát triển thành phố trong tương lai.

Phần thứ hai

NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU VÀ MỚI

CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 45-NQ/TW

Nội dung trình bày của phần này gồm:

I- Kết quả đạt được sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW và Kết luận 72-KL/TW.

II- Một số hạn chế, yếu kém và nguyên nhân.

III- Quan điểm, mục tiêu.

IV- Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.

V- Tổ chức thực hiện.

Sau đây là các nội dung chủ yếu của Nghị quyết:

I- KẾT QUẢ CHỦ YẾU ĐẠT ĐƯỢC SAU 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 32-NQ/TW, KẾT LUẬN 72-NQ/TW

Thứ nhất: Về các chỉ tiêu kinh tế

1- Tốc độ tăng trưởng kinh tế:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP bình quân 15 năm (2003-2017) đạt 10,92%/năm (gấp 1,68 lần so với mức tăng trưởng chung cả nước, mức tăng trưởng bình quân cả nước trong 15 năm qua là 6,5%).

2- Giá trị tổng sản phẩm (GRDP) bình quân đầu người:

GDRP bình quân đầu người năm 2017 đạt 3.694 USD gấp 1,54 lần bình quân cả nước (GDP bình quân đầu người cả nước là 2.398 USD), GRDP bình quân đầu người năm 2017, tăng 5,43 lần so với năm 2003 (GRDP bình quân đầu người năm 2003 là 680 USD).

3- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực:

Tỷ trọng GRDP của nhóm ngành công nghiệp – xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, thủy sản lần lượt là: năm 2003 (35,77% – 49,04% – 15,19%); năm 2017 (42,13% –  52,62% – 5,25%).

Qua số liệu trên, tỷ trọng GRDP của ngành công nghiệp tăng 6,36%; tỷ trọng GRDP ngành thương mại, dịch vụ tăng 3,58%; tỷ trọng GRDP ngành nông, lâm, thủy sản giảm 9,94%. Sự chuyển dịch của cơ cấu GRDP trong các ngành phù hợp với định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Nghị quyết 32-NQ/TW đã đề ra. Tuy tỷ trọng GRDP của ngành nông nghiệp giảm còn 5,25% nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng xấp xỉ 1,5 lần so với năm 2003 (do quy mô kinh tế thành phố năm 2017 đã tăng gấp 4,27 lần so với năm 2003).

Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ, cảng biển đều có những bước bước phát triển rất quan trọng:

– Về công nghiệp, đã thu hút được các tập đoàn công nghiệp lớn thuộc tốp 500 thế giới với các sản phẩm công nghiệp hiện đại như LG (Hàn Quốc), GE (Mỹ), Bridgestone (Nhật), Nhà máy ô tô Vinfast (Vingoups), ..

– Về thương mại, dịch vụ, đã triển khai trung tâm thương mại AEON, một số khách sạn 5 sao, Dự án cáp treo và quần thể vui chơi, nghỉ dưỡng đảo Cát Bà.

– Đã hoàn thành 2 bến khởi động Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, có khả năng tiếp nhận tàu 200 nghìn tấn, kết nối trực tiếp với các cảng lớn ở châu Âu, châu Mỹ mà không phải trung chuyển.

4- Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển:

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 15 năm (2003-2017) đạt 487.921 tỷ đồng, tăng bình quân 16,58%/năm. Trong đó, việc huy động nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp (trong nước và ngoài nước), từ nhân dân chiếm tỷ trọng lớn, lên tới 390.336 tỷ đồng, chiếm tới 80% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cho thấy thành phố đã có nhiều cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút và huy động nguồn lực xã hội hóa xây dựng và phát triển thành phố theo đúng định hướng của Nghị quyết 32-NQ/TW.

5- Tổng thu ngân sách trên địa bàn:

Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2017 đạt 75.858 tỷ đồng, tăng 10,5 lần so với năm 2003 (tổng thu ngân sách năm 2003 là 7.166 tỷ đồng).

Tỷ trọng tổng thu ngân sách trên địa bàn thành phố so với cả nước tăng từ 4,42% năm 2003 lên 5,59% năm 2017, đứng thứ 3 toàn quốc.

Thu nội địa 2017 đạt 21.909 tỷ đồng, tăng 12,5 lần so với năm 2003 (thu nội địa năm 2003 là 1.752 tỷ đồng).

Đến thời điểm hiện nay, Hải Phòng đứng thứ 3 cả nước về tổng thu ngân sách và đứng thứ 8 về thu ngân sách nội địa.

Thứ hai: Những kết quả đạt được về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

Trong 15 năm qua, hệ thống hạ tầng giao thông của thành phố được quan tâm đầu tư mạnh mẽ, khá toàn diện (cả đường bộ, đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa), nhiều tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, nhiều công trình giao thông lớn đã hoàn thành, góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo thành phố, tạo ra nền tảng để thúc đẩy sự phát triển của thành phố.

15 năm qua đã đầu tư vào lĩnh vực giao thông là 124.000 tỷ đồng với 57 cây cầu, 44 tuyến đường với 627 km quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện được đầu tư mới. Đặc biệt là, nhiều công trình giao thông quan trọng nêu trong Nghị quyết 32-NQ/TW về cơ bản đã được thực hiện (như cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; cầu Tân Vũ – Lạch Huyện; Cảng hàng không quốc tế Cát Bi; Cảng nước sâu tại Lạch Huyện )

Hải Phòng đã khẳng định được vai trò là thành phố cảng, đầu mối giao thông quan trọng, cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc theo đúng định hướng của Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hiện nay, Hải Phòng là một trong những địa phương có kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ tốt nhất so với các tỉnh, thành phố.

Thứ ba: Về quy hoạch, quản lý quy hoạch; quản lý và phát triển đô thị

Trong giai đoạn 2003-2017, thành phố đã triển khai nhiều đề án quy hoạch làm cơ sở để quản lý và phát triển đô thị, phát triển kinh tế – xã hội thành phố (Ngày 16/9/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1448/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050; ngày 06/7/2018, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 821/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030)

Thành ủy, HĐND, UBND thành phố đã ban hành nhiều nghị quyết về quản lý, phát triển và quy hoạch đô thị (Nghị quyết 04-NQ/TU, ngày 03/01/2012 của Thành ủy về phát triển và quản lý đô thị Hải Phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050).

Đây là những công cụ rất quan trọng để thành phố quản lý và phát triển đô thị trong những năm vừa qua và đạt được những kết quả quan trọng. Đô thị trung tâm thành phố được đầu tư chỉnh trang, từng bước hiện đại hóa; đã hoàn thành 39/51 tiêu chí đô thị loại I. Không gian đô thị đã được mở rộng về 3 hướng đột phá (Bắc Sông Cấm, Cát Hải, Nam sông Lạch Tray) theo đúng định hướng; thành lập 3 quận mới (Đồ Sơn, Hải An, Dương Kinh). Các cảnh quan của đô thị thành phố, nhất là cảnh quan tại các khu du lịch như Cát Bà, Đồ Sơn cơ bản vẫn được giữ gìn và bảo vệ. Việc phát triển và quản lý đô thị cơ bản theo đúng định hướng của Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ tư: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Trong giai đoạn 2003-2017, Thành ủy, HĐND, UBND thành phố đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng giao thông để kết nối các khu vực ngoại thành với nội thành, đầu tư nhiều nguồn lực để hoàn thành các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Đến năm 2017, đã có 89/139 xã hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Hình thành nhiều khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, từng bước chuyển đổi cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp. Hệ thống giao thông trong nông thôn được đầu tư đồng bộ, làm thay đổi diện mạo nông thôn, góp phần cải thiện điều kiện sống, lao động, sản xuất của người dân theo đúng định hướng của Nghị quyết 32-NQ/TW.

Thứ năm: Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại đều đạt được kết quả quan trọng

Thành phố luôn quan tâm tới các lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Một số công trình, đề án thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội nêu trong Nghị quyết 32-NQ/TW đã được quan tâm đầu tư, triển khai như: thành lập Trường Đại học Hải Phòng, Khu liên hiệp thể thao, Bệnh viện đa khoa Việt Tiệp, Bệnh viện Y học cổ truyền…

Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh theo chuẩn nghèo của từng giai đoạn, năm 2003 là 6,7% xuống còn 2,06% năm 2017, thấp hơn bình quân chung cả nước (6,69%).

Các chính sách an sinh xã hội, nhất là chính sách đối với gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công được quan tâm và có nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả. Quốc phòng – an ninh được bảo đảm. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả.

Thứ sáu: Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị

Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được chú trọng, tạo chuyển biến mạnh, toàn diện. Hải Phòng thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về công tác xây dựng Đảng. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy được đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trưởng thành, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hiệu lực quản lý nhà nước của các cấp chính quyền được nâng cao. Công tác dân vận được chú trọng; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội có nhiều đổi mới, hiệu quả thiết thực, tạo được sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong nhân dân.

II- MỘT SỐ HẠN CHẾ, YẾU KÉM

Thứ nhất: Mục tiêu cơ bản hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước năm 2020 không đạt được

Việc xác định các tiêu chí công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm và chưa có bộ tiêu chí xác định hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (đối với cấp quốc gia cũng như cấp địa phương).

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về bộ tiêu chí để đánh giá hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (có quan điểm đánh giá bằng năng suất lao động, có quan điểm đánh giá về trình độ phát triển của các ngành kinh tế, có quan điểm đánh giá bằng các tiêu chí phát triển của đô thị, có quan điểm đánh giá trình độ phát triển khoa học – công nghệ, có quan điểm đánh giá tổng hợp các yếu tố). Tuy nhiên còn nhiều tranh luận và chưa đi đến thống nhất.

Hiện nay, để đánh giá trình độ công nghiệp hóa, hiện đại đại hóa, một số quốc gia đã lựa chọn thu nhập bình quân đầu người làm tiêu chí đánh giá. Và tiêu chí mức thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 12.000 USD trở lên được coi là đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đối với thành phố Hải Phòng, đến năm 2017, GRDP bình quân đầu người đạt 3.694 USD, dự kiến năm 2020 đạt khoảng 5.700 USD. Nếu đánh giá theo tiêu chí mà các quốc gia đánh giá thì đến năm 2020, chúng ta mới đạt khoảng 47,5% mức thu nhập bình quân của nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Như vậy, theo tiêu chí thu nhập, thành phố không hoàn thành mục tiêu cơ bản hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước năm 2020 như Nghị quyết 32-NQ/TW đã đề ra.

Thứ hai: Một số chỉ tiêu kinh tế, quy mô kinh tế thành phố tăng chậm so với bình quân cả nước và một số tỉnh, thành phố

1- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành công nghiệp thành phố trong giai đoạn 2003-2017 bình quân đạt 14,9%, thấp hơn các địa phương khác.

– Trong cùng thời kỳ, giá trị sản xuất công nghiệp của Bắc Ninh tăng 38,56%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp của Bình Dương tăng bình quân 25,13%/năm.

– Năm 2003, giá trị sản xuất công nghiệp Hải Phòng đứng thứ hai trong vùng Đồng bằng sông Hồng sau Hà Nội; năm 2017 đứng thứ 3 trong vùng ĐBSH, sau Bắc Ninh, Hà Nội, đứng thứ 4 miền Bắc, sau Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên.

2- Tỷ trọng GRDP của thành phố trong GDP của vùng ĐBSH giảm. Năm 2003 tỷ trọng GRDP của Hải Phòng trong GDP vùng ĐBSH chiếm 14,63%; đến năm 2017 giảm xuống 10,81%.

3- Tốc độ tăng tỷ trọng GRDP của thành phố trong GDP cả nước thấp hơn một số tỉnh, thành phố:

– Năm 2003, tỷ trọng GRDP của Hải Phòng – Hà Nội – Bắc Ninh- Hưng Yên – Quảng Ninh lần lượt là: 2,97% – 8,00% – 0,91% – 0,97% – 1,45%.

– Năm 2017, tỷ trọng GRDP của Hải Phòng – Hà Nội – Bắc Ninh – Hưng Yên – Quảng Ninh lần lượt là: 3,30% – 13,10% – 3,23% – 1,16% – 2,43%.

Mức tăng tỷ trọng GRDP của các địa phương sau 15 năm xếp theo thứ tự từ cao tới thấp là: Hà Nội 5,10%, Bắc Ninh 2,32%, Quảng Ninh 0,98%, Hải Phòng 0,33%;  Hưng Yên 0,19%.

Thứ ba: Kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra

1- Hạ tầng giao thông chậm được đầu tư. Nguồn lực của Trung ương đầu tư cho hạ tầng giao thông còn hạn chế, một số công trình thuộc sự quản lý của Trung ương thành phố phải ứng ngân sách địa phương và chi một phần ngân sách địa phương để đầu tư (ví dụ: Cảng hàng không quốc tế Cát Bi, một số cầu bảo đảm an toàn giao thông).

2- Một số công trình ghi trong Nghị quyết 32-NQ/TW, Kết luận 72-KL/TW chưa triển khai hoặc đã triển khai nhưng tiến độ còn chậm (Xây dựng quân cảng Đồ Sơn, đường sắt Lào Cai- Hà Nội – Hải Phòng, đường ven biển Hải Phòng -Thái Bình-Nam Định-Ninh Bình, khu đô thị mới Bắc Sông Cấm, …)

3- Phát triển, quản lý quy hoạch, quản lý đô thị còn nhiều tồn tại. Tình trạng vi phạm quy hoạch, vi phạm trật tự xây dựng còn diễn ra. Tới nay, còn đến 12/51 tiêu chí đô thị loại I chưa hoàn thành, nhiều tiêu chí còn rất thấp (ví dụ tỷ lệ diện tích đất giao thông đô thị mới đạt 8,33%, thấp hơn xa so với yêu cầu là từ 16-24%; đất cây xanh đô thị mới đạt 3,4m2/người, thấp hơn nhiều so với yêu cầu là từ 10-15m2/người; …)

Thứ tư: Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị còn có mặt hạn chế

1- Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên thiếu gương mẫu, có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, giảm sút ý chí chiến đấu, quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết.

2- Công tác quản lý, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu; phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ.

3- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chưa cao; cải cách hành chính chưa đạt kết quả như mong muốn.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:

1- Việc phổ biến, học tập, quán triệt Nghị quyết 32-NQ/TW có lúc, có nơi còn bị buông lỏng, chưa thực sự tạo được sự thống nhất, quyết tâm chính trị mạnh mẽ từ Trung ương đến địa phương.

2- Năng lực phân tích, dự báo, công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm còn nhiều yếu kém, thiếu thường xuyên, kịp thời; chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng các cơ chế, chính sách có tính đột phá, khả thi cao để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, huy động các nguồn lực cho thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW.

3- Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; có lúc, có nơi có biểu hiện nóng vội, duy ý chí hoặc thụ động, trông chờ, ỷ lại.

4- Liên kết vùng, đặc biệt là trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh chưa được đẩy mạnh, hiệu quả chưa cao, còn biểu hiện cục bộ, địa phương.

5- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, giữa công nghiệp hoá, đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới, gây bức xúc, bất ổn trong nhân dân.

III- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

Trong phần này tôi sẽ làm rõ những vấn đề cơ bản và mới trong các quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết 45-NQ/TW so với Nghị quyết 32-NQ/TW trước đây.

1- Quan điểm

Quan điểm thứ nhất: Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trên cơ sở khai thác hiệu quả các lợi thế, tiềm năng, mối tương quan, liên kết với các tỉnh ven biển Bắc Bộ, khu vực đồng bằng Sông Hồng, các tỉnh phía Bắc và kết nối quốc tế. Hải Phòng không chỉ là một cực phát triển quan trọng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh mà còn là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước.

Quan điểm thứ hai: Chú ý giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nhanh và bền vững; giữa kế thừa và phát triển; giữa phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó phát triển theo chiều sâu là chủ đạo, để Hải Phòng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước, sớm trở thành thành phố công nghiệp gắn với cảng biển phát triển hiện đại, thông minh, bền vững với những ngành mũi nhọn như kinh tế biển, cơ khí chế tạo, chế biến, điện tử, dịch vụ logistics, khoa học và công nghệ biển.

Quan điểm thứ ba: Các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế – xã hội của Hải Phòng phải gắn liền với mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường, sinh thái; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân; chú trọng chăm lo xây dựng đội ngũ công nhân Hải Phòng thực sự là lực lượng tiên phong trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh cơ cấu lại ngành Nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá và đô thị hoá.

Quan điểm thứ tư: Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách có tính đột phá, khả thi cao, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi, có khả năng cạnh tranh cao, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Chú trọng đầu tư phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố Hải Phòng.

Quan điểm thứ năm: Tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp uỷ, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, truyền thống cách mạng của các tầng lớp nhân dân Hải Phòng.

2- Mục tiêu tổng quát:

“Xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; có công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không; trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ, kinh tế biển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở Châu Á; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững”.

3- Những điểm mới trong các quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết 45-NQ/TW

Điểm mới thứ nhất: Hải Phòng không chỉ là một cực phát triển quan trọng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh mà còn động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước”.

Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX xác định Hải Phòng là một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc. Nghị quyết 45-NQ/TW xác định thành phố Hải Phòng là “động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nước”.

Như vậy, Nghị quyết 45 đã xác định đúng hơn, rõ hơn và nâng tầm vị thế của Hải Phòng trong mối tương quan chung của cả nước (từ chỗ chỉ là một cực trong tam giác kinh tế trở thành “động lực phát triển” của cả vùng và cả nước. Rõ ràng, phát triển Hải Phòng không chỉ vì Hải Phòng mà còn vì cả miền Bắc và cả nước).

Điểm mới thứ hai: Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị định hướng rõ con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố: “Giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa phát triển nhanh và bền vững; giữa kế thừa và phát triển; giữa phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó phát triển theo chiều sâu là chủ đạo, để Hải Phòng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước, sớm trở thành thành phố công nghiệp gắn với cảng biển phát triển hiện đại, thông minh, bền vững với những ngành mũi nhọn như kinh tế biển, cơ khí chế tạo, chế biến, điện tử, dịch vụ logistics, khoa học và công nghệ biển”.

Điểm mới trong định hướng phát triển đối với Hải Phòng là vừa phải nhanh để đạt mục tiêu đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước. Vừa phải phát triển bền vững để đạt mục tiêu trở thành thành phố công nghiệp hiện đại, thông minh trên các lĩnh vực: khoa học – công nghệ, thiết bị và năng suất lao động, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, đô thị, giao thông vận tải.

Điểm mới thứ ba: Nghị quyết 45-NQ/TW nâng tầm vai trò, vị trí, khả năng kết nối, quy mô và trình độ phát triển của hạ tầng giao thông thành phố: “Kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không”.

Đây là một bước phát triển mới về quan điểm, mục tiêu.

Nghị quyết 32-NQ/TW mới chỉ xác định Hải Phòng là “đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc” thì Nghị quyết 45-NQ/TW đã khẳng định hạ tầng giao thông Hải Phòng phải đồng bộ các loại hình, trong đó có 4 loại hình giao thông quan trọng là: đường sắt, đường bộ, đường biển, đường hàng không phải hiện đại, kết nối cả trong nước và quốc tế, đáp ứng được yêu cầu Hải Phòng là trung tâm hội nhập quốc tế.

Điểm mới thứ tư: Điểm mới trong Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị là không chỉ xác định mục tiêu tổng quát mà còn đưa ra các mục tiêu, các chỉ tiêu cụ thể cho từng giai đoạn phát triển tương ứng của thành phố.

Đến năm 2025: Thành phố Hải Phòng cơ bản hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đạt các tiêu chí đô thị loại I; trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại; là trọng điểm kinh tế biển của cả nước, trung tâm dịch vụ logistics quốc gia, trung tâm đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ biển của cả nước, trung tâm nghề cá, dịch vụ hậu cần nghề cá và tìm kiếm cứu nạn khu vực phía Bắc; Cát Bà, Đồ Sơn cùng với Hạ Long trở thành trung tâm du lịch quốc tế. Hoàn thành việc di chuyển trung tâm hành chính thành phố sang phía Bắc Sông Cấm; xây dựng chính quyền đô thị với bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Một số chỉ tiêu cụ thể: Tỉ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm (GDP) cả nước đạt khoảng 6,4%. Tỉ trọng đóng góp vào GDP vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là 23,7%. Tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2018 – 2025 tối thiểu là 13%. GRDP bình quân/người đạt 14.740 USD. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 180.000 đến 190.000 tỉ đồng. Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào GRDP từ 44% – 45%. Cơ bản không còn hộ nghèo (theo chuẩn quốc gia).

Đến năm 2030: Trở thành thành phố công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững tầm cỡ khu vực Đông Nam Á; trung tâm dịch vụ logistics quốc tế hiện đại bằng cả đường biển, đường hàng không, đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao; trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ với các ngành nghề hàng hải, đại dương học, kinh tế biển. Cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại đặc biệt. Hoàn thành việc chuyển đổi 50% số huyện thành đơn vị hành chính quận. Chính quyền đô thị được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của thành phố thông minh.

Một số chỉ tiêu cụ thể: Tỉ trọng đóng góp vào GDP cả nước đạt 8,2%; đóng góp vào GDP vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 28,3%; tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2026 – 2030 thấp nhất là 12,5%; GRDP bình quân/người đạt 29.900 USD; thu ngân sách trên địa bàn đạt 300.000 – 310.000 tỉ đồng; đóng góp của TFP vào GRDP từ 48% – 50%.

Tầm nhìn đến năm 2045: Hải Phòng trở thành thành phố có trình độ phát triển cao trong nhóm các thành phố hàng đầu Châu Á và thế giới.

Thông qua việc xác định các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể cho từng giai đoạn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố như các chỉ tiêu về phát triển đô thị, về tốc độ tăng trưởng kinh tế, về thu ngân sách nhà nước, về mức thu nhập bình quân đầu người, về quy mô, trình độ phát triển của thành phố cho thấy sự tin tưởng, đánh giá vị trí quan trọng của Hải Phòng, trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền thành phố.

(1) Trung ương, Bộ Chính trị đánh giá rất cao vai trò, vị trí và thế mạnh, tiềm năng của thành phố Hải Phòng, đồng thời cũng yêu cầu Hải Phòng phát triển với tốc độ cao, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và được vận dụng nhiều mô hình, cách làm mới, để Hải Phòng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế miền Bắc và cả nước.

(2) Nghị quyết đưa ra các chỉ tiêu cụ thể về thu ngân sách, thu nhập bình quân, vể tăng trưởng kinh tế thể hiện tinh thần hành động quyết liệt của Nghị quyết. Do đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết từ Trung ương tới địa phương cần phải đổi mới bằng các nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, cụ thể hóa các chỉ tiêu của Nghị quyết vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm của thành phố, của các ngành, các địa phương và chỉ đạo thực hiện quyết liệt mới có thể thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết đặt ra.

Như vậy, trong Nghị quyết 45-NQ/TW kỳ này có 4 điểm mới căn bản so với Nghị quyết 32-NQ/TW trước đây. Trong đó có 02 điểm mới về quan điểm phát triển và 02 điểm mới trong xác định mục tiêu, chỉ tiêu phát triển thành phố.

IV- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

(1) Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó các nguồn lực xã hội (cả trong nước và ngoài nước) là động lực quan trọng, các nguồn lực Nhà nước giữ vai trò định hướng dẫn dắt.

(2) Coi trọng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, phát triển đô thị xanh, đô thị thông minh, văn minh, hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới; tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

(3) Phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại; đẩy mạnh liên kết vùng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, các địa phương ven biển Đông Bắc, hai hành lang kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc.

(4) Phát triển mạnh các thành phần kinh tế để tạo đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Hải Phòng, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế.

(5) Xây dựng, phát triển hệ thống các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng thành phố Hải Phòng trở thành trọng điểm phát triển khoa học – công nghệ biển của cả nước.

(6) Gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

(7) Gắn phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng – an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững chủ quyền quốc gia; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

(8) Tập trung chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.

Tám nhiệm vụ giải pháp nêu trên đều có mối quan hệ mật thiết với nhau nên cần được tổ chức triển khai thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả. Trên cơ sở 8 nhiệm vụ, giải pháp này, Ban Thường vụ Thảnh ủy đã chỉ đạo xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 45-NQ/TW gồm 15 chương trình cụ thể. Đồng chí Chủ tịch UBND thành phố sẽ triển khai cụ thể vào chiều hôm nay.

Sau đây, tôi chỉ nêu một số điểm trọng tâm và mới trong yêu cầu nhiệm vụ của Nghị quyết 45-NQ/TW:

Thứ nhất: Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trong đó các nguồn lực xã hội (cả trong nước và ngoài nước) là động lực quan trọng, các nguồn lực nhà nước giữ vai trò định hướng, dẫn dắt.

Nghị quyết đã chỉ ra nhiệm vụ hàng đầu là vừa phải tăng cường nguồn thu ngân sách, vừa phải cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để huy động nguồn lực xã hội hóa.

Nghị quyết cũng chỉ rõ, giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách, trong đó sử dụng vốn ngân sách như là nguồn vốn mồi để huy động nguồn lực xã hội dể xây dựng thành phố.

Nghị quyết xác định giải pháp, huy động, sử dụng nguồn lực là giải pháp thứ nhất, quan trọng nhất, là rất phù hợp với tình hình của thành phố. Đây cũng chính là điểm nghẽn, cản trở sự phát triển của thành phố trong nhiều năm qua.

1- Nguồn thu ngân sách của thành phố trong những năm qua tuy có tăng cao nhưng vẫn chưa tương xứng với quy mô của nền kinh tế, thất thoát còn lớn. Thu nội địa của Hải Phòng tới nay còn thấp, ước đạt khoảng 28 nghìn tỷ vào năm 2019, thấp hơn so với Quảng Ninh (năm 2019 thu nội địa Quảng Ninh ước đạt khoảng 35.325 tỷ, dân số Quảng Ninh là 1,5 triệu, trong đó dân số đô thị là 1 triệu người, số doanh nghiệp là trên 10.000, trong khi dân số của Hải Phòng là trên 2 triệu, dân số đô thị là 1 triệu, số doanh nghiệp là trên 18.000); tỷ trọng thu ngân sách nội địa của Hải Phòng năm 2019 mới đạt 2,3% cả nước (1.200.000 tỷ đồng); trong khi đó, tỷ trọng GRDP thành phố trong GDP cả nước năm 2019 là 3,73%. Vì vậy, giai đoạn tới phải tập trung nhiều biện pháp cụ thể, đủ mạnh để khắc phục bằng được những tồn tại này. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị thành phố.

2- Từ kinh nghiệm thực tiễn trong những năm qua cho thấy nguồn lực xã hội hóa để xây dựng và phát triển thành phố (nguồn lực từ doanh nghiệp, từ nhân dân) lớn hơn rất nhiều so với nguồn lực từ ngân sách. Qua số liệu thống kê, trong 5 năm (2014 -2019) tổng vốn đầu tư toàn xã hội đầu tư cho phát triển thành phố là 480.012,5 tỷ, trong đó nguồn lực ngoài nhà nước là 414.885,5 tỷ đồng, gấp 6,37 lần nguồn lực từ ngân sách (65.127 tỷ đồng).

Qua phân tích trên cho thấy nguồn lực để xây dựng và phát triển thành phố và đất nước từ doanh nghiệp và người dân (chiếm tới 86,25%, 414.885,5/480.012,5 tỷ) giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển. Nguồn lực từ ngân sách nhà nước chỉ chiếm 13,75%, giữ vai trò định hướng, dẫn dắt.

Như vậy địa phương nào, giai đoạn nào mà huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội hóa thì sẽ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để huy động được nguồn lực xã hội thì phải cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ mọi rào cản, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất, kinh doanh mà môi trường đầu tư, kinh doanh có phạm vi rất rộng, bao gồm: thủ tục đầu tư, thủ tục đất đai, cải cách hành chính, hạ tầng giao thông, giải phóng mặt bằng, an ninh trật tự, cơ chế chính sách, phân cấp phân quyền, …Đây là những vấn đề rất quan trọng để huy động được nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng thành phố. Theo mục tiêu của Nghị quyết 45-NQ/TW đã đề ra thì nhiệm vụ quan trọng nhất của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành để tháo gỡ mọi rào cản, tạo môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh.

Thứ hai: Coi trọng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, phát triển đô thị thông minh, văn minh, hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới; tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Có một số nội dung chúng ta cần lưu ý trong lãnh đạo, chỉ đạo:

1- Trong quá trình phát triển thành phố, công tác xây dựng quy hoạch, quản lý quy hoạch là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy các cấp, các ngành, các địa phương cần tổ quản lý chặt chẽ, bảo đảm thực hiện đúng các quy hoạch đã được phê duyệt. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm quy hoạch. Nhất là vi phạm đất cây xanh, đất cảnh quan, đất công cộng để triển khai các dự án không đúng quy hoạch.

2- Về phát triển không gian đô thị thành phố, tập trung mở rộng về 3 hướng đột phá: về phía Bắc Sông Cấm; về phía Cát Hải, Cát Bà; về phía Đồ Sơn, ven sông Lạch Tray. Trước hết tập trung cao nguồn lực để hoàn thành di dời Trung tâm Hành chính-Chính trị thành phố sang Bắc Sông Cấm trước năm 2025.

Trong quá trình phát triển các khu đô thị mới, thực hiện đồng bộ hiện đại hóa hạ tầng kĩ thuật, các tiêu chí đô thị loại I, đô thị thông minh, đô thị xanh theo đúng định hướng mục tiêu Nghị quyết 45-NQ/TW đề ra (tập trung vào 12/51 tiêu chí đô thị loại I chưa đạt: thu nhập bình quân đầu người so với cả nước từ 1,75 – 2,1 lần; tỷ lệ tăng dân số hàng năm từ 1,6 – 2%; mật độ dân số toàn đô thị từ 2.000 – 3.000 người/km2; mật độ dân số khu vực nội thành, nội thị trên diện tích đất xây dựng đô thị là 10.000  – 12.000 người/km2; tỷ lệ giao thông so với đất xây dựng từ 16 -24%; mặt độ đường từ 10 – 13 km/km2; tỷ lệ vận tải hành khách công cộng từ 15 – 20%; diện tích đất giao thông từ 13 – 15m2/người; mật độ cống thoát nước chính 4-4,5 km/km2; tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt chuẩn từ 40-50%; đất cây xanh đô thị từ 10 – 15m2/người; đất cây xanh khu vực nội thành, nội thị từ 5 – 6m2/người).

3- Đối với chỉnh trang đô thị trung tâm thành phố, phải thực hiện đúng các quy hoạch đã được duyệt; tập trung chỉnh trang các khu đô thị cũ, nhất là xây dựng lại các chung cư xuống cấp, đầu tư kè các dòng sông trong nội đô thành phố, sắp xếp lại một số khu dân cư theo hướng tăng thêm các công viên, đất cây xanh, các công trình phúc lợi công cộng.

4- Đối với xây dựng nông thôn mới, cần sớm xây dựng bộ tiêu chí nông thôn mới kiểu mẫu của thành phố, bố trí nguồn lực chuyển đổi cây trồng gắn với cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; bố trí nguồn lực thỏa đáng để bảo đảm diện mạo, điều kiện lao động, sinh hoạt tương xứng với sự phát triển của thành phố theo mục tiêu Nghị quyết.45-NQ/TW của Bộ Chính trị cho từng giai đoạn

Thứ ba: Phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại; đẩy mạnh liên kết vùng trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, các địa phương ven biển Đông Bắc, hai hành lang kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Đây là nhiệm vụ rất quan trọng. Trong quá trình triển khai thực hiện, chúng ta cần lưu ý:

1- Trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, phải sử dụng nhiều nguồn lực, trong đó:

– Những công trình trọng điểm, chiến lược mang tầm quốc gia như đường sắt cao tốc thuộc trách nhiệm của Trung ương thì thành phố kiến nghị với Trung ương để triển khai từ nguồn vốn của Trung ương.

– Đối với các công trình kết cấu hạ tầng giao thông có quy mô lớn, có ý nghĩa tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội thành phố mà ngân sách thành phố chưa thể đáp ứng, cần xây dựng phương án cụ thể để xã hội hóa để đầu tư theo các hình thức BOT, BT.

– Những công trình kết cấu hạ tầng giao thông gắn với chỉnh trang đô thị, bảo đảm an toàn giao thông và liên quan trực tiếp đến đời sống người dân, nhất là khu vực ngoại thành, còn khó khăn, cần ưu tiền nguồn lực ngân sách thành phố để triển khai thực hiện.

2- Tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng và đầu tư xây dựng cơ bản nói chung phải bảo đảm tính hiệu quả cao; tránh đầu tư dàn trải, kéo dài, gây lãng phí, đội vốn đầu tư.

Thứ tư: Phát triển mạnh các thành phần kinh tế để tạo đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Hải Phòng, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế.

Do vậy, từ những quan điểm phát triển các thành phần kinh tế và từ tình hình thực tế của thành phố, trong thời gian tới:

– Tập trung thực hiện sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; phối hợp các cơ quan liên quan giải quyết dứt điểm việc xử lý, cơ cấu lại Tập đoàn Vinashin, Vinalines, đặc biệt là đối với các công ty con đóng trên địa bàn thành phố Hải Phòng, bảo đảm quyền lợi, tài sản của Nhà nước, đời sống, việc làm của người lao động.

– Đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tập thể, tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển hiệu quả trong mọi lĩnh vực, coi đây là nền tảng phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

– Chú trọng phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng, tạo đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội của thành phố, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi nhọn, có lợi thế.

– Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu thông qua tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, tránh việc cạnh tranh dẫn đến cắt giảm thuế, phí quá mức, gây bất bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, gây thất thoát ngân sách nhà nước. Ưu tiên thu hút đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các dự án có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, có nghiên cứu phát triển, cam kết chuyển giao công nghệ, có khả năng lan toả, liên kết với các doanh nghiệp trong nước theo chuỗi giá trị.

Thứ năm: Gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, trong những năm qua, thành phố đã thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu. Vì vậy, các cấp, các ngành, các địa phương cần tiếp tục quan tâm:

1- Cần phát huy chủ trương của thành phố đã triển khai rất thành công trong những năm qua là: “Đầu tư cho an sinh, phúc lợi xã hội đi trước một bước so với phát triển kinh tế”. Trong giai đoạn tới, các chế độ, chính sách của thành phố đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công, hộ nghèo, các lĩnh vực phúc lợi công cộng sẽ tiếp tục được quan tâm theo đúng tinh thần Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.

2- Huy động tối đa nguồn lực của thành phố, đồng thời tiếp tục có những cơ chế, chính sách thiết thực để huy động nguồn lực xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, … nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân với mục tiêu ngang tầm các thành phố tiêu biểu của Đông Nam Á và Châu Á, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của người Hải Phòng

Thứ sáu: Tập trung chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.

Để bảo đảm vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của các cấp uỷ đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong tổ chức thực hiện Nghị quyết 45, chúng ta cần chú trọng triển khai một số nhiệm vụ sau đây:

1- Trước hết, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các địa phương, đơn vị cùng toàn thể cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc, đúng đắn về những thành tựu to lớn mà Đảng bộ, chính quyền, nhân dân thành phố đã đạt được, cũng như những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân mà Bộ Chính trị đã chỉ ra trong Nghị quyết 45-NQ/TW; để có những bài học kinh nghiệm cả mặt được và chưa được trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, tiếp tục phát huy truyền thống “Trung dũng – Quyết thắng” của thành phố, tăng cường đoàn kết trong toàn Đảng bộ, trước hết là trong thường trực, thường vụ và cấp ủy các cấp. Đây chính là sức mạnh để thành phố tổ chức triển khai thực hiện thành công Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị.

2- Tiếp tục triển khai các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cụ thể là, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hóa trong nội bộ” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thực chất. Đặc biệt là phải kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, ngăn chặn những thông tin xấu độc, cản trở sự phát triển của thành phố.

3- Đổi mới tổ chức bộ máy trong Đảng, chính quyền và trong toàn hệ thống chính trị bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII. Xây dựng đội ngũ cán bộ của thành phố phải có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết, trách nhiệm với sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố. Đi đôi với loại bỏ những cán bộ năng lực yếu kém, uy tín thấp và mất đoàn kết nội bộ.

4- Các cấp ủy Đảng đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành theo phương châm thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở. Phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt dân chủ cơ sở. Thường xuyên lắng nghe, tiếp thu, giải trình ý kiến phản ánh của nhân dân. Tổ chức tốt công tác tiếp dân, xử lý khiếu nại, tố cáo; không để xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài; coi đây là nhiệm vụ chỉ đạo thường xuyên và phản ánh mức độ hoàn thành trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền. Không ngừng chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Nội dung phần này, đề nghị các đồng chí chủ động nghiên cứu trong văn kiện. Tôi nhấn mạnh thêm 3 ý sau đây:

Thứ nhất: Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 45-NQ/TW không chỉ là niềm vui, niềm mong đợi, mà còn là điểm tựa vững chắc, động lực quan trọng để Hải Phòng thật sự cất cánh mạnh mẽ trong thời kỳ mới. Với 5 quan điểm chỉ đạo, với các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể cùng các nhóm nhiệm vụ, giải pháp có tính khả thi cao đã được xác định, Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định chủ trương đúng đắn, phù hợp, kịp thời, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với thành phố Hải Phòng – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có vị trí trọng yếu về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Tiếp nối Nghị quyết 32-NQ/TW từ 15 năm trước, Nghị quyết 45-NQ/TW kỳ này chắc chắn sẽ giúp Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố nhận thức đầy đủ hơn nữa về vị trí, vai trò và trách nhiệm trong mối tương quan chung của cả vùng và cả nước. Không những thế, Nghị quyết 45-NQ/TW còn là cơ sở để các cơ quan, bộ, ngành Trung ương, các địa phương bạn trên cả nước và quốc tế có cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn, qua đó củng cố thêm sự tin cậy, vững tâm trong quá trình hợp tác, liên kết, đầu tư phát triển trên “mảnh đất lành” Hải Phòng đầy tiềm năng lợi thế.

Thứ hai: Như đã nêu ở phần đầu, xuất phát từ ý nghĩa, vị thế của Hải Phòng nên Nghị quyết 45-NQ/TW không phải chỉ vì Hải Phòng mà còn vì cả khu vực miền Bắc và cả nước. Do vậy, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết cũng không chỉ là trách nhiệm của riêng Hải Phòng mà còn là trách nhiệm của Trung ương và các địa phương khác. Cho nên Bộ Chính trị đã phân công rất cụ thể, đúng người, đúng việc để các cơ quan, bộ, ngành từ Trung ương đến các địa phương liên quan cùng có trách nhiệm triển khai thực hiện. Trong đó, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Thứ ba: Về phía địa phương, chúng ta phải xác định việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 45-NQ/TW là một cơ hội vô cùng to lớn, là “điểm tựa” quan trọng, tạo động lực, tạo “đòn xeo” để thúc đẩy Hải Phòng cất cánh mạnh mẽ hơn nữa trong thời kỳ mới.

Do vậy, hơn ai hết, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hải Phòng phải chủ động triển khai nghiêm túc và có hiệu quả Nghị quyết quan trọng này. Phát huy cao độ sự đồng thuận của xã hội, vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị nhằm sớm đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống. Những vấn đề cụ thể về chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết do Thành ủy chỉ đạo sẽ được trình bày trong báo cáo của UBND thành phố.

Trên đây tôi đã trình bày khái quát những vấn đề chủ yếu và mới trong Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Trân trọng cảm ơn các đồng chí đã quan tâm theo dõi./.

Nguồn. haiphong.gov.vn

Tiện ích thông tin
Nguồn tin
QR Code
QR CODE: Phát biểu của đồng chí Lê Văn Thành Ủy viên TW Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND thành phố về nội dung quán triệt Nghị quyết 45-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chúng tôi trên Mạng Xã hội
QR Code Fanpage
Mã QR Code truy cập vào Fanpage Cổng tin tức Thành phố Hải Phòng
Tin khác