Hay tin ông trút hơi thở cuối cùng tối hôm qua 22-9, tại Bệnh viện quân y 175 (TP Hồ Chí Minh), không riêng gì tôi mà rất nhiều người cho biết cảm giác bàng hoàng chẳng khác gì một người thân của mình vừa qua đời vậy.
Có lẽ chính do đức tính chân chất nông dân, yêu lao động, yêu quý từng cọng rau, luống cà mà ông – con người dù tôi mới một lần gặp, trở nên thân quen gần gũi. Gần một ngày, lúc ngồi coi ông trồng cây mãng cầu trên bờ ruộng, lúc bón thêm rơm mục cho mấy luống rau sạch, lúc trầm người xuống ao cá bên hong nhà, móc từng bụm đất, trám lỗ mọi, tôi nhận ra điều ông tâm niệm và cả đời thực hiện nghiêm túc.
“Tao là nông dân. Chừng nào nhắm mắt xuôi tay thì thôi chứ một ngày không cho tao ta đồng là tao chết à”. Nói rồi ông mở nút bình rượu ngâm với trái giác rừng vừa được một người dân Cà Mau cho, vừa nhâm nhi, vừa kể chuyện cho tôi nghe…
Múc nước mưa xối rào rào, tắm xong, “Anh hùng Bảy lúa” – tên mà người dân địa phương quen gọi đối với Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Bảy, trở ra kể thêm chuyện “binh nghiệp” của ông và không quên lấy khăn rằng rất đặc trưng Nam Bộ, choàng lên cổ (ông Bảy cho biết ông có thói quen dùng khăn rằng từ hơn 60 năm trước). Kể chuyện đánh giặc trên không, giọng ông Bảy vẫn chân chất như khi ông kể chuyện làm ruộng, trồng cây, nuôi cá, đôi lúc pha chút ví dỏm, rất dễ gần gũi.
“Mày có hình dung không, tiếng là Anh hùng phi công, bắn rơi nhiều máy bay địch vậy chứ đâu mấy ai biết hồi tao thoát ly, tao mới học chưa xong lớp ba trường làng” – ông Bảy cười khà khà.
Theo lời kể, “cơ duyên” để ông Bảy trở thành phi công cũng chẳng giống ai trên… thế giới này. Đó là năm 17 tuổi, ông bị ép cưới vợ. Nhưng vì chẳng muốn lập gia đình sớm, ông Bảy trốn cha mẹ rồi tham gia quân đội.
Năm 1960, tức 6 năm kể từ ngày tập kết ra Bắc, ông là một trong số rất ít được chuyển từ một sư đoàn bộ binh sang không quân, rồi được chọn đi học lái máy bay. “Hồi nhỏ tao cao 1 met 67, nặng 69 ký. Ông bà, cha mẹ tao đều là nông dân rặc. Nằm mơ tao cũng không nghĩ là mình được đi học lái máy bay” – ông Bảy bộc bạch.
Ông kể để được học lái máy bay, tệ nhất cũng phải xong lớp 10/10 (tương đương lớp 12 hiện nay), trong khi ông mới tới lớp 3. Vậy là chỉ có đúng một tuần học văn hóa, theo phương châm “cần gì, học đó”, ông hoàn thành xong 7 lớp.
Xong phần lý thuyết cơ bản lái máy bay ở trong nước, ông được đưa sang Trường hàng không số 3 nằm tại TP Cẩm Châu, tỉnh Liêu Ninh – một nơi đào tào lái máy bay tốt nhất nhì của Trung Quốc bấy giờ. Đoàn học viên của Việt nam được đào tạo lái máy bay MiG17 lúc đó chỉ có 34 người.
Từ lý thuyết đến thực hành là cả một quá trình khó khăn, phức tạp. “Tiền đình của tao không ngon lắm. Hồi mới vô huấn luyện, hễ leo lên buồng lái là tao ói tới luôn. Vậy là lấy ruột trái banh, cắt bỏ 1/3 rồi đeo vào cổ, lúc nào ói thì ói vào đó” – ông kể.
Học lái MiG17 nhưng có lúc, ông và các đồng nghiệp thực hành trên máy bay K-56. Để đảm bảo an toàn, ban đầu “bạn làm ta xem”, sau đó thì chuyển sang giai đoạn “ta làm bạn xem”.
Khó nhưng ông cho biết, tất cả đều nỗ lực vượt qua, nhất là mỗi khi nhớ lời huấn thị của Bác Hồ trước giờ lên đường: “Các cháu là những học sinh, chiến sĩ miền Nam, hãy cố gắng học tập và rèn luyện cho tốt để sau này trở thành những phi công giỏi, chiến đấu thống nhất đất nước mình. Và còn chở Bác về thăm đồng bào miền Nam nữa chứ!”.
Đầu năm 1964, đúng như nhận định trước đó của Bộ Chính trị và Quân ủy TW: Bị thất bại thảm hại trong “Chiến tranh cục bộ” tại miền Nam, để hạn chế chi viện của hậu phương cho tiền tuyến, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn thực hiện kế hoạch đánh phá miền Bắc Việt Nam.
Ban đầu, chúng dùng máy bay do thám trên vùng trời miền Bắc, sử dụng đội nhảy dù phá hoại, gây chiến tranh tâm lý, thả biệt kích phá hoại hệ thống đường sá, cầu cống của ta. Tháng 3-1964, Giôn-xơn phê chuẩn kế hoạch Mắc-na-ma-ra.
Đó là tăng cường và mở rộng “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, hòng đe dọa và gây sức ép buộc miền Bắc phải ngừng chi viện cho miền Nam.
Đêm mồng 4 rạng ngày 5-8-1964, Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, cho không quân Mỹ ném bom bắn phá một số nơi trên miền Bắc như cửa sông Gianh, Vinh – Bến Thủy, Lạch Trường, thị xã Hòn Gai… mở đầu “chiến tranh phá hoại miền Bắc” lần thứ nhất.
Trở về nước, năm 1965, ông Bảy thuộc biên chế của Trung đoàn không quân tiêm kích 923 (mật danh Đoàn Yên Thế) và tham gia tham chiến trận đầu tiên trên vùng trời Bắc Sơn – Chi Lăng. “Ở Mỹ và các nước phương Tây, phi công phải thực tập bay trung bình từ 5.000 – 7.000 giờ mới được tham chiến. Nhưng tình hình lúc đó, phi công nào bay nhiều nhất cũng chỉ khoảng 300 giờ là tham chiến” – ông cho biết.
Mười giờ trưa 7-10-1965, bốn chiếc MiG17 của ta cất cánh. Được mười phút, ta phát hiện máy bay Mỹ nên Biên đội trưởng quyết rượt theo một chiếc F4. Phát hiện bên trái chiếc MiG17 Biên đội trưởng xuất hiện 4 máy bay địch, ông Bảy đang bay phía sau yểm trợ, báo cáo và xin ý kiến phản kích. Đội trưởng vừa dứt lời, ông Bảy lái chiếc MiG17 đối đầu với 4 máy bay địch khiến chúng phải quay đầu. Bổng phía sau xuất hiện chiếc F4 khác của địch bám sát rồi nã đạn pháo làm máy bay ông bị trúng đạn.
“Tao phát hiện kính mê ca buồng lái dày cả hai phân bị một vết thủng khá lớn, gần bằng mặt đồng hồ treo tường loại trung (khoảng trên 30cm). Đặc biệt, ngay vị trí kính trước vị trí tam tinh của tao, có một vết bắng cái đít ly uống trà nhưng tao không bị gì. Lúc này, máy bay đang ở tốc độ khoảng 700km/h. Tao lại nhớ đến lý thuyết đường sóng, ống vòng về thủy khí động lực của nhà khoa học Béc – nu – li: tốc độ càng lớn thì áp suất càng nhỏ và ngược lại, nên dùng tay bịt lại dù rất sợ áp suất không khí lôi tay tôi ra ngoài.
Tao cố gắng trấn tỉnh và lấy tay còn lại kéo cần điều khiển đưa “con” MiG 17 hạ cánh. Anh em đồng đội vui mừng hò reo nhất là khi thấy máy bay tao hạ cách an toàn dù bị dính tới 82 vết, mãnh đạn pháo. Lãnh đạo nói nếu lúc đó, tao xin nhảy dù, chỉ huy duyệt liền” – ông kể.
Theo đánh giá của các chuyên gia Liên Xô sau này, đấy là chiến tích chưa từng xảy ra trong lịch sử hàng không nói chung trên thế giới – máy bay bị “lủng lỗ” cùng lúc nhiều vị trí nhưng phi công vẫn hạ cánh an toàn.
Ông Bảy cho biết, ông có đến 13 lần cùng đồng đội (mỗi người 1 chiếc) xuất kích, trong đó có 7 lần ông ra tay và cả 7 lần, địch đều phải trả giá đắt nhất.
Chiến công đầu tiên của ông Bảy được xác lập ngày 21-6-1966. Hôm đó biên đội 4 chiếc MiG17 của ta phát hiện nhiều máy bay Mỹ, trong đó có một máy bay trinh sát RF-8A được hộ tống bởi máy bay F8 Crusader vốn được mệnh danh là “hiệp sĩ thánh chiến” của phi đội 211 Mỷ. Biên đội trưởng Phan Thành Trung đã tiêu diệt chiếc RF-8A; còn phi công Bảy hạ chiếc F-8E do Cole Black điều khiển.
Đến các ngày 24 và 29-6-1966, phi công Bảy tiếp tục lập công – bắn rơi máy bay F-4C và F105D trên bầu trời Thái Nguyên, Việt Trì và Hà Nội.
Ngày 21-9-1966, trên bầu trời Chí Linh (Hải Dương), 16 máy bay F-4 và F105 địch chia thành nhiều tốp, nhiều tầng, nhiều hướng bao vây biên đội 4 máy bay ta. Trận này, địch bị ta hạ 3 chiếc, trong đó phi công Bảy hạ 1 chiếc F-4…
Tôi tò mò hỏi về “người bạn” gắn liền với những chiến công của ông, ông Bảy cho biết mỗi “con” MiG17 trước khi xuất kích đều mang theo ít nhất 1.800 lít xăng, đó là chưa kể 2 thùng dầu phụ hai bên (chứa được thêm 800 lít xăng).
Sau khi bay lên, nếu gặp những tình huống phải tăng lực tối đa (tốc độ lý thuyết có thể đạt 1.050km/h), mỗi phút, MiG17 “ngốn” 45 lít xăng. Trong điều kiện nhiên liệu, rượt đuổi như thế, chiếc nào bay được lâu nhất trên không cũng chỉ 40 phút, phải đáp xuống để tiếp nhiên liệu. “Chính vì đặc điểm này mà không thể có chuyện áp tải đối phương mà chỉ có một lựa chọn duy nhất là bấm nút – bắn” – ông Bảy kể tiếp.
Mỗi chiếc MiG17 được trang bị 2 quả bom (loại 150kg/quả), 2 khẩu pháo 23 và 37mm, với tổng cộng 200 viên đạn (khẩu 37mm chỉ 40 viên). Với tổng số đạn đó, ông Bảy nói “chỉ cần mình siết cò trong 7 giây là hết sạch”. Điều quan trọng hơn hết là vào thời điểm đó, mỗi phương tiện máy bay chiến đấu như thế được viện trợ từ ngoài luôn được xem là “con cưng”.
“Chính vì những đặc điểm, điều kiện như vậy nên mỗi lần xuất kích, anh em tụi tao hạ quyết tâm là phải diệt cho bằng được đối phương” – ông Bảy kể.
Hớp ly nước trà, ông Bảy cho biết khi ngồi vào vị trí lái máy bay chiến đấu, người lái chẳng khác người mù, phải chịu sự điều khiển từ bộ phận ra đa ở mặt đất. Tuy nhiên khi phát hiện địch rồi, mình phải khẩn trương vạch ra phương án chiến đấu để báo cáo chỉ huy.
Có một chi tiết khiến địch luôn bị thiệt hại mỗi khi gặp ông chính là lối đánh áp sát đối phương. Ông tâm đắc, kể: “Khi huấn luyện bay, khoảng tối thiểu để nhả đạn phải là 800met, còn gần hơn thì được xếp vào tình huống mất an toàn, rất dễ đụng nhau với đối phương, rồi mình cũng banh xác. Thế nhưng nhớ lại, trước khi mỗi lần ra tay, ấn nút, tao đều áp sát đối phương, chỉ còn cách 200 – 300met”.
Nhắc đến lối đánh áp sát đối phương, ông Bảy nhắc lại “trận nhớ đời” mà ông cùng bạn chiến đấu quê Bến Tre là Võ Văn Mẫn (sau đó hy sinh, là Anh hùng LLVTND – PV) đã chiến đấu với địch trên bầu trời khu vực cầu Giẽ (Hà Tây) vào ngày 5-9-1966.
“Cả ngày được phân công trực bầu trời, chẳng thấy gì. Tới chiều, tao và Mẫn được lệnh trở về sân bay thì phát hiện hai chiếc máy bay địch như hai chấm nhỏ ở phía trái. Ban đầu, tao tưởng hai chiếc F-8 tăng tốc để tấn công tụi tao ai dè nó tháo lui nhanh ra hướng biển. Tao quyết định xé mây, bay tắt để đón chúng.
Tình huống này khó lắm bởi nếu mình cúp đường bay trước đầu nó thì coi như mình đưa lưng cho nó bắn; còn nếu cúp chậm hơn thì vuột mất nó nên phải tính kỷ để sao vừa luồn qua mây là bám sát đuôi nó. Khó nhưng phải làm ngay.
Thật đúng lúc, vừa ra khỏi đám mây thì hai chiếc MiG của tao và Mẫn cũng bám theo sát đuôi chúng. Tao truyền lệnh, đề nghị Mẫn bắn chiếc bên trái, phần tao xử chiếc bên phải. Trận này thiệt ngon, chỉ có 45 giây mà tao và Mẫn hạ hai chiếc của tụi nó. Ngay sau trận hôm đó, tao và Mẫn được Bác Hồ gởi tặng huy hiệu của Người”.
Cũng xuất kích bí mật từ sân bay Kiến An, ngày 21-9-1966, ngay sau khi phát hiện chiếc F-4 của địch sắp nã đạn vào chiếc MiG17 của phi công Mẫn, ông Bảy với vai trò chỉ huy đã khẩn trương lệnh cho Mẫn lập tức ra khỏi tầm ảnh hưởng, thế là hai quả tên lửa của địch tự “đá vào lưới nhà” khiến chiếc F-4 phía trước gảy làm đôi. Còn phi công Mẫn đang bị kẹp giữa 8 chiếc F-4 khác nhưng chúng không thể ra tay được trong khi ông bắn hạ 1 chiếc rồi nhanh nhảu biến mất.
Nhắc đến Bác Hồ, ông Bảy kể tôi nghe câu chuyện mà ông không thể nào quên. Đó là chiều 12-12-1966, sau Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước toàn quốc, ông Bảy vinh dự cùng 37 chiến sĩ không quân có thành tích xuất sắc được lên Phủ Chủ tịch gặp Bác Hồ. Người tươi cười hỏi: “Chú nào bắn rơi 4 máy bay Mỹ trở lên?”.
Sau khi nghe đồng chí Chính ủy Quân chủng Đặng Tính báo cáo, Bác đề nghị: “Chú Bảy, chú Mẫn, chú Trung đâu, đứng lên cho Bác biết?”.
Ông Bảy cùng hai đồng đội đứng dậy sung sướng. Còn Bác thì tỏ ra rất hài lòng. Tư lệnh Phùng Thế Tài báo cáo thêm với Bác, trong đó có nhắc đến chiến công hai phi công Bảy và Mẫn chiến đấu trong một biên đội trong trận chiến đấu ngày 5-9-1966 đã diệt gọn hai chiếc F-8 của Mỹ, nên ngay tối hôm đó đã được Bác gửi tặng hai huy hiệu.
Giọng Bác ôn tồn: “Bác nhớ rồi. Hai chú đều quê ở miền Nam, chú Bảy ở Sa Đéc, còn chú Mẫn ở Bến Tre phải không? Bác hoan nghênh chiến công của tất cả các chú. Các chú đánh khá, nhưng đừng thấy Bác khen mà mũi to ra. Bắn rơi 4 chiếc còn ít. Các chú phải đánh giỏi, bắn rơi nhiều máy bay nữa để Bác vui, đồng bào miền Nam vui…”.
Ông Bảy kể, sau đại hội này, tinh thần của ông và nhiều anh em như chiếc đồng hồ được lên… dây cót. Chỉ trông được lệnh xuất kích…
Chiều 24-4-1967, biên đội 4 chiếc MiG17 bí mật hạ cánh xuống sân bay Kiến An (Hải Phòng) phục kích địch. Đến 16 giờ 30 phút, đúng như tin ta nắm được, nhiều tốp F-4 và F-105 của địch xuất phát từ hướng biển bay vào đánh khu vực Đông Triều (Quảng Yên). Biên đội xuất kích, được dẫn vòng đến khu vực Sơn Động (Hà Bắc), thuận ánh mặt trời dễ quan sát.
Khi phát hiện địch phía bên phải, cách 10km, chiếc MiG17 của Nguyễn Bá Địch được lệnh vứt thùng dầu phụ để tăng lực, cùng Võ Văn Mẫn đánh tốp đầu.
Sau vài phút rượt đuổi, một chiếc F-4 của địch bị bắn hạ. Lúc đó, ông Bảy cùng một đồng đội đang quần nhau với 4 chiếc F-4 ở tầm thấp hơn. Thế trận xen kẽ, ông Bảy đang bám hai chiếc F-4 phía trước. Sau ông lại có hai chiếc F-4 bám đuôi.
Ông Bảy tiếp cận chiếc F-8C của phi đội 24 do Thiếu tá hải quân E.J.Tucker lái điều khiển và ông ấn nút khẩu 37mm. Chiếc F-8C bốc cháy. E.J.Tucker đã nhảy dù và bị bắt. Những chiếc F-4B của Phi đội 114 hộ tống thấy thế tăng lực, tiếp cận công kích lại nhưng chúng không lẹ hơn chiếc MiG17, đành phải rút lui.
Ông Bảy kể những trận chiến đấu trên không rất khác với trận chiến ở dưới mặt đất, cả mình và đối phương đều không có chiến tuyến, không có công sự ẩn nấp, chỉ khác là máy bay của mình kém hiện đại hơn máy bay của địch; tỷ lệ “chọi” cũng rất chênh lệch – mình ít, địch đông. Cũng có những lúc địch cho loại máy bay cơ động không chiến vòng trong với ta, nhưng ở vòng ngoài, chúng cho máy bay khác “me” lúc những chiếc MiG của ta sơ hở, mải mê công kích để phóng tên lửa tiêu diệt. “Không trận đánh nào giống trận đánh nào. Mình không linh hoạt, uyển chuyển là sa ngay vào bẫy của chúng” – ông Bảy đúc kết.
Ông Bảy kể tôi nghe trận đánh cũng thuộc dạng “hiếm có” xảy ra năm 1967 trên vùng trời Sơn Động (Hà Bắc): “Trận này, tụi nó thua đau và tức điên” – ông Bảy khoái chí, nhớ lại: “Tao chỉ huy Biên đội 4 chiếc MiG17 quần nhau với 6 chiếc F-4 ở tầm thấp. Khi đó, tao đang tăng lực bám theo một thằng F-4 ở độ cao chỉ cách mặt đất 100m. Một chiếc F-4 thấy thế bám theo tao. Đoán biết nó đang phóng hỏa, tao lập tức lật cánh, chuyển hướng. Thế là chiếc F-4 phía trước tao lãnh đủ. Coi như trận này tao không tốn viên đạn nào mà vẫn làm thiệt một thằng F-4”.
Ông Bảy nói với tôi rằng, nếu kể chuyện chiến đấu, chuyện đồng đội, và đặc biệt là về những chiếc máy bay chiến đấu mà ông từng gắn bó “có khi mấy ngày tao kể chưa hết”.
Tôi hỏi câu chuyện mà ông vẫn hay kể với anh em, bạn bè, đó là cuộc đời ông gắn với con số bảy kỳ lạ, ông cười khà khà: “Thì đó là trong nhà tao là con thứ bảy; tên Bảy; tham gia Cách mạng năm 17 tuổi; học văn hóa 7 ngày xong 7 lớp, 7 lần bắn rơi máy bay địch, láy máy bay chiến đấu MiG17, được bảy huy hiệu Bác Hồ; được phong tặng Anh hùng vào 1967. Đến tháng 7-1967, tao đẻ con trai đầu lòng”.
Rồi ông giải thích thêm: “Tao tên Hoa, chứ đâu phải tên Bảy đâu. Nhưng hồi đi học trường làng, bị bạn bè chê sao tên giống con gái. Vậy là sẵn thứ bảy, tao về nói cha mẹ đổi tên thành Bảy luôn. Năm 17 tuổi, tao trốn nhà theo bô đội. Nói thiệt, giác ngộ Cách mạng thì có, nhưng thú thiệt là do sợ ở nhà bị ông bà già bắt cưới vợ, nên đi bộ đội. Tao thắng địch tỷ lệ 7- 0, tức địch chưa hề gảy ngứa được tao – tức tao không hề bị thương hay phải nhảy dù lần nào”.
“Tối qua tao vừa nghĩ ra được một số con số bảy gắn với đời tao nữa. Đó là chiếc MiG17 tao lái chỉ bằng 70% tốc độ hầu hết các lọai máy bay của địch mà tao đã bắn hạ. Khi giải phóng miền Nam xong, ngày 6-5-1975, tao và một số anh em vào tiếp quản sân bay Cần Thơ, tao chủ trì thành lập Trung đoàn 937” – ông Bảy cho biết thêm.
Trước hôm gặp và nghe ông kể về những chiến công huyền thoại, tôi tìm ông khá vất vã. Nghe ông không còn ở Hòa Thành, tôi hỏi đường sang Tân Dương. Thế nhưng tới Tân Dương rồi, tôi tình cờ biết người cháu của ông đang là cán bộ địa chính xã, cho biết nhà ông hiện đã dời qua thị trấn cùng tên huyện Lai Vung nổi tiếng với đặc sản nem của Đồng Tháp. “Nhưng ông Bảy đi Sài Gòn mấy bữa nay rồi. Nghe đâu cả tuần nữa ổng mới về” – anh Duy cho biết.
Tôi xin số điện thoại của ông rồi bấm máy gọi. Giọng ông rổn rảng, đặc sệt tính cách của nông dân miền Tây Nam Bộ: “Tuần sau tao mới dìa”.
Gần một tuần sau đó, tôi gọi, ông nói còn có chút việc nên phải nán lại mấy bữa nữa. Và mãi tới thứ tư tuần gần cuối tháng 4-2015, quay lại vùng quê Lai Vung, tôi mới gặp được ông
“Tháng nào cũng vậy, ông Bảy lên Sài Gòn vừa thăm con, thăm cháu nội, sinh hoạt CLB không quân và lĩnh lương hưu. Lần nào đi Sài Gòn ông Bảy cũng đùm túm đủ loại sản vật mà ổng nuôi, trồng được như gà, vịt, cá mắm, trái cây,… lên cho con cháu, anh em đồng đội” – Tú, khi đó là Phó bí thư xã đoàn Tân Dương, cũng là cháu rễ của ông Bảy, cho biết.
Nhà ông Bảy nằm giữa đồng. Trước nhà ông là một con kênh xáng cũng là ranh giới hành chính giữa thị trấn Lai Vung với xã Tân Dương. Để tới được nhà ông, từ trụ sở UBND xã Tân Dương, chúng tôi phải đi ngoằn ngoèo thêm khoảng 5km, theo con đường nhựa cũ, khá hẹp lại có rất nhiều cầu; sau đó rẽ trái vào nhà ông theo một lối đi nhỏ được trải đá dăm.
“Ông Bảy vận động nhà hảo tâm đổ đá chứ hồi trước đâu được vầy đâu. Rồi cũng nhờ ông Bảy mà cả chục hộ dân nằm sâu trong này sớm có điện xài. Ông Bảy thương người lắm. Được tiền bồi dưỡng mỗi dịp được mời kể chuyện truyền thống, ông không xải đâu mà bỏ vào heo đất, gây quỹ tiết kiệm cho trường. Học sinh, nhà trường và đoàn thanh niên nhiều nơi từ đó phát động phong trào nuôi heo đất ông Bảy” – Tú, kể thêm.
Ngay từ trước khi bước vô căn nhà cấp 4 của ông Bảy, tôi nhận ra tố chất rất cần cù của ông Bảy dù rằng năm nay, ông đã bước vào tuổi 80. Mãnh sân nhỏ trước nhà ngoài phần diện tích ông để cho con cháu cùng xóm phơi lúa, ông trồng đủ thứ rau, củ, quả, hoa kiểng và những cây thuốc nam. Tất cả đều rất tươi tốt. Còn trên tường mặt tiền nhà mình, ông Bảy cho chạm phù điêu của quân chủng mà ông từng lẫy lừng với những chiến công đặc biệt.
Chúng tôi bước vào nhà, theo lối nhà bếp, đi luồn ra phía sau nhà tìm ông. Công sức của “Anh hùng Bảy lúa” hiện rõ ràng trước mặt. Cánh đồng lúa xanh rì. Trên bờ mẫu được gia cố tựa những con đê chống lũ có đến hàng chục loại cây ăn trái. Cạnh nơi tôi đứng, sa ri chín rụng đầy lối đi; mít thì trái sai oằn từ gốc tới ngọn. Khi chúng tôi lên tiếng chào, ông Bảy đang lui cui trồng mấy gốc mãng cầu gai thay thế cho một số cây mà theo ông “chẳng nên nết”, tức cho trái như ý ông.
Múc nước tưới mấy gốc mãng cầu vừa được trồng, ông Bảy quay sang tôi, cho biết suốt ngày, ít khi ông ở trong nhà mà “khoái” ở ngoài đồng, làm bạn với ruộng lúa, cây trái và mấy con cá. Ông kể hồi mới “giả từ binh nghiệp”, ông trở về lại với “kiếp” nông dân bằng việc về Hòa Thành – mãnh đất ngày xưa đã sinh ra ông, cất chòi, lên bờ liếp trồng cây, khoét thêm ao nuôi cá.
Chỉ xuống ao cá có chiếc cầu tre lắc lẻo bắc qua, ông Bảy cho biết: “Tao đặt dớn ngoài kinh. Hễ dính cá gì nuôi được là tao thả vô đây nuôi”. Chính vì vậy mà giờ ao cá của ông cũng đủ chủng loại cá.
“Môi trường nước ở đây ngon lành à nghen. Hồi sáng tao bắt mấy con cá mè, cá chép, cá rô phi, con nào cũng chửa, trứng óc nóc” – ông Bảy ra vẻ tâm đắc.
Người dân cùng xóm nói “ông Bảy lúa mát tay”, trồng cây gì, nuôi con gì cũng sống, cũng… “trúng”. Lúa, ông Bảy làm mỗi công tới 50 giạ. Người dân cùng xóm còn nể ông Bảy lần ông trồng được củ khoai mì nặng gần 23 kg, “dư sức đem đi đấu xảo”.
Tôi nói bờ mẫu đất phèn, sao ông trồng cây gì cũng tươi tốt, ông Bảy cười khà khà, nói như chia sẻ kinh nghiệm cho một học trò đang “học” làm nông dân: “Đất phèn thì phải vun phân cho nó. Rồi tháng trời nắng, phải siêng năng tưới cho nó, đủ nước nó mới tốt được chứ”.
Ngồi dưới tán cây, gió mát rượi, rít điếu thuốc lá, ông Bảy nói với tôi giọng mãn nguyện: “Tao trồng tỉa cho vui, cho con, cho cháu, chòm xóm ăn, có khách khứa thì cây nhà, lá vườn đem lên nhậu, chứ tao với bả mà ăn uống bao nhiêu. Được cái là nhờ vậy mà quanh năm, nhà tao chẳng phải đi chợ. Tao nhờ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà từng tuổi này vẫn khỏe trân, vác bao lúa năm chục ký đi te te; rượu đế nhâm nhi nửa lít là… chuyện nhỏ”.
“Anh hùng Bảy lúa” bộc bạch với tôi rằng giờ quen với công việc nhà nông, nên hễ đi đâu vài ngày là ông nhớ da diết. Ông kể lúc nhỏ ông là dân chăn bò, chăn trâu, suốt ngày ở ngoài đồng. Cái mùi lúa non, mùi sữa khi lúa trổ đòng đòng, mùi lúa chín và cả mùi âm ẩm của rơm rạ cứ theo đuổi ông suốt mấy mươi năm xa quê, đánh giặc. Và chính vì vậy, trở lại từ chiếc trường, ông không có cớ gì để mà không tìm lại nó. Tôi để ý trong nhà của ông có hai chiếc võng, đều được đặt cạnh cửa sổ. Hai ông bà vẫn hay nằm võng này “coi” tivi, đọc báo. “Nằm đây lúc nào tao cũng thấy mát rượi. Sướng nhất là luôn ngửi được mùi lúa ngoài ruộng theo gió bay vào và tiếng cá dưới ao sau nhà giành mồi, quảy đuôi…”.
Tôi hỏi điều khiến ông tâm đắc, hạnh phúc nhất, ông Bảy nói chính là đã vinh dự nhiều lần được gặp Bác, nghe theo lời Bác, học, chiến đấu hết mình.
Ôn lại chặng đường chiến đấu vẻ vang của mình, ông Bảy rất rất tự hào được anh em đồng chí đánh giá là người luôn giành phần nguy hiểm về mình nhiều nhất. Ông cũng là chiến sĩ không quân đầu tiên được bầu vào Quốc hội (khóa IV và nửa nhiệm kỳ V thì miền Nam hoàn toàn giải phóng – PV), là một trong ba phi công được Bác Hồ tuyên dương Anh hùng LLVTND đầu tiên trong đợt tuyên dương anh hùng thời chống Mỹ, cứu nước đầu tiên ở miền Bắc, là Anh hùng không quân được mời tham gia Đoàn chủ tịch đại hội, các cuộc mít tinh của quân đội và Nhà nước nhiều lần nhất;… Là một trong 16 phi công Việt Nam đạt đẳng cấp “ách” (aces) – một danh hiệu có từ chiến tranh thế giới thứ hai, dành cho những phi công lái máy bay quân sự có số lần bắn hạ máy bay đối phương đạt con số từ năm trở lên.
Về kỷ niệm kể từ sau ngày về hưu, trở thành “Anh hùng Bảy lúa”, ông kể tôi nghe lần ông gặp lại “đối thủ trên không” của mình – tướng phi công Mỹ Steve Richie. Một trong những việc mà Steve Richie làm khi quay trở lại Việt Nam lần đó là về Đồng Tháp, quyết tìm lại cho bằng được Anh hùng Nguyễn Văn Bảy – người phi công năm xưa đã bắn hạ chiếc F-4 mà ông ấy từng lái.
Tướng Steve Richie xin kết bạn, nói lời cảm ơn ông Bảy vì đã cứu sống ông ta trong chiến tranh. “Hôm đó, tao tiếp Steve Richie bằng một bữa cơm gạo thơm, có thịt gà thả vườn, cá dưới ao và rượu tự nấu. Steve Richie vừa ăn vừa khen ngon. Anh ta cũng khâm phục luôn cái tài làm nông dân của Bảy lúa” – ông Bảy kể.
Chia tay với tôi, “Anh hùng Bảy lúa” còn cười khà khà kể kỷ niệm xảy ra cách nay gần 30 năm: “Lái máy bay chiến đấu đánh giặc bao nhiêu năm không bị gì. Vậy mà Tết 1986, trong khi đi tặng hoa đào chở từ miền Bắc vào cho các đơn vị không quân phía Nam thì trực thăng chở bị tai nạn do phi công bất cẩn quệt phải ngọn cây gần sân vận động Bạc Liêu. Trực thăng gảy cánh quạt, rớt. Tao và mấy thằng em suýt chết… oan”.
Trước khi về hưu vào năm 1989, Anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy từng giữ các chức vụ quan trọng trong lực lượng Quân chủng phòng không Không quân, như: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 937; Phó Tư lệnh Sư đoàn 372; Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Sau 30/4/1975, ông tiếp quản sân bay Cần Thơ và tham gia điều hành các sân bay miền Nam như Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Cần Thơ.
“Gần 3 tháng, tao cùng anh em đi gom được khoảng 100 chiếc, nhiều nhất vẫn là trực thăng phục vụ cho việc di tản ra tàu ngoài biển. Để đem chúng về, một số anh em phải lái chiếc A37 lạ quắc. Từ một phi công thành thạo lái được MiG 17, nếu học bài bản để chuyển qua lái máy bay chiến đấu A37, nhanh nhất cũng phải mất đứt 3 tháng. Đằng này, tụi tao làm quen A37 chỉ có một tuần. Tao còn dặn anh em nhớ cái thắng bằng chân của chiếc A37, bởi hồi lái MiG17, mình kéo cần lái bằng tay”, ông Bảy kể về những ngày đi gom máy bay do người của chế độ Sài Gòn bỏ lại.
Tôi nhớ lần gặp đó, đang kể, giọng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy bổng chùn xuống khi nhắc lại ngày Bác mất – ngày 2-9-1969. Được phân công trực bên thi hài Bác bảy ngày liên tiếp, mắt ông luôn xốn xang và cảm thấy tiếc nuối vì chưa thực hiện được việc lái máy bay đưa Bác vào thăm đồng bào miền Nam như đã hứa.
Ông Bảy kể, vào ngày 9-9-1969, đúng vào thời điểm thiêng liêng, xúc động trong lễ tang Bác, trên bầu trời Hà Nội xuất hiện hai biên đội MiG21 và MiG17 bay thật thấp qua Quảng trường Ba Đình nghiêng cánh chào vĩnh biệt Bác. Phi đội trưởng của nhóm MiG17 gồm 12 chiếc do ông làm Phi đội trưởng.
Theo lời Anh hùng Nguyễn Văn Bảy, trong lần về Đồng Tháp tìm ông, tướng phi công Mỹ Steve Richie mang theo đứa con gái của một người bạn từng là phi công nhưng đã mất tích trong một trận đánh với phi công Việt Nam tại miền Bắc.
Sau gần 50 năm, người con gái Mỹ ấy lớn lên luôn nhưng luôn trăn trở, khắc khoải về tin tức cha mình và cô hy vọng có thể bố mình vẫn còn sống và thất lạc đâu đó ở Việt Nam. Nghe qua lời của Steve Richie, ông quả quyết: “Nếu đúng như mô tả của Steve Richie thì chính tôi đã bắn cháy chiếc máy bay ấy. Nhưng tôi không thấy phi công nhảy dù”.
Ông bộc bạch dù nói ra sự thật ấy chỉ khơi lại nỗi đau đến thất vọng cho đứa con đi tìm cha, nhưng đó là sự thật không thể chối cãi. Trong cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ đất nước mình, người Việt Nam cũng phải chịu những nỗi đau mất mát rất lớn.
Thái Bình
Việc thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến giấy chứng nhận quyền…
Chiều 22/11, trong khuôn khổ của Diễn đàn Chuyển đổi số thành phố Hải Phòng…
Sáng 22/11, UBND thành phố tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết…
Ngày 22/11, UBND thành phố Hải Phòng phối hợp với Hiệp hội Phần mềm và…
Chiều 21/11, tại Trung tâm Hội nghị thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố…
Ngày 20/11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã…
This website uses cookies. See Our policy to learn more.
Read More