Print Thứ Sáu, 11/10/2019 10:00

Cách đây 65 năm, người Hà Nội tưng bừng trong rừng cờ hoa mừng vui chiến thắng, đón những người con trở về giải phóng Thủ Đô. Từ trái tim Tổ quốc, tiếng hô “Việt Nam độc lập” vang vọng khắp non sông.

Đối với Hải Phòng, dấu ấn ấy có ý nghĩa đặc biệt, bởi đất Cảng là nơi khởi lửa đầu tiên, cũng là điểm cuối cùng tiễn đưa những kẻ xâm lược rời khỏi miền Bắc.

Bộ đội ta tiếp quản Thủ Đô ngày 10-10-1954 (Ảnh tư liệu)

Từ Hải Phòng…

Ngay sau ngày tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng Hòa đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, vận mệnh cách mạng có lúc “ngàn cân treo sợi tóc”.

Trước tình hình ấy, Hồ Chủ Tịch và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều giải pháp khôn khéo, thỏa hiệp với Pháp nhằm tránh một cuộc chiến tranh. Nhưng âm mưu của đế quốc Pháp ngày càng lộ rõ, chúng gây hấn ở Nam Bộ, rồi đưa quân ra phía Bắc, liên tục khiêu khích quân ta.

Sáng 20-11-1946, quân Pháp kiếm cớ thu giữ một ca nô chở xăng tại cảng Hải Phòng, ngang nhiên nổ súng vào lực lượng công an ta. Rồi chúng huy động một lực lượng lớn, có sự yểm trợ của xe bọc thép, tấn công rộng ra các địa bàn. Ta kiên trì đàm phán, nhưng Pháp tiếp tục leo thang…

Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại trong một cuốn hồi ký: “7h sáng ngày 23-11, phía Pháp đưa tối hậu thư đòi quân ta rút khỏi một số điểm của thành phố Hải Phòng, đòi tước vũ khí các đội tự vệ tại Lạc Viên…”

Không được đáp ứng, 9h45 ngày 23-11-1946, Pháp cho xe tăng, trọng pháo tiến công tàn bạo hơn, dùng máy bay đánh phá Kiến An. Các lực lượng cách mạng non trẻ tại Hải Phòng dựng những chiến lũy bằng giường, tủ, bàn ghế, với những vũ khí thô sơ kiên cường giữ từng góc phố, khu nhà.

Đại tướng Võ Nguyễn Giáp viết: “Cuộc chiến anh dũng của những người con Hải Phòng như cuộc tổng diễn tập thực sự, mở đầu cho một quy mô mới của cuộc chiến tranh cướp nước của quân Pháp ra toàn miền Bắc…”.

Lính Pháp rút khỏi Hà Nội qua cầu Long Biên về tập kết tại Hải Phòng theo Hiệp định Giơ-ne-vơ

Đến “toàn quốc kháng chiến”.

Sau sự kiện Hải Phòng, quân Pháp lặp lại chiêu bài khiêu khích tại Hà Nội.   Bộ chỉ huy Pháp ra tối hậu thư: “Phải tước vũ khí của tự vệ Hà Nội… trao cho quân Pháp duy trì an ninh trong thành phố, chậm nhất là vào sáng 20-12-1946…”.

Một buổi tối mùa đông, Đài tiếng nói Việt Nam truyền đi lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “…Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”.

Hà Nội chỉ có một đêm để chuyển sang tình trạng chiến tranh. Lúc này, lực lượng quân Pháp ở Hà Nội khá đông, gồm 1 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn pháo cùng nhiều biệt kích, lính dù và không quân, thủy quân… tổng cộng 6.500 người.

Ngoài ra còn có 7.000 Pháp Kiều được trang bị vũ khí, chưa kể lực lượng tù binh Pháp bị Nhật bắt trước đó được thả và tái vũ trang. Lực lượng của ta có 5 tiểu đoàn vệ quốc quân với 2.515 người, khoảng 8.000 tự vệ, công an xung phong…

Nhưng khó khăn nhất vẫn là sự chênh lệch quá lớn về trang bị kỹ thuật, toàn lực lượng ta chỉ có hơn 2.000 khẩu súng, chủ yếu là súng trường kiểu cổ, rất ít đạn.

Nhưng trước kẻ thù mạnh gấp bội phần, lời hiệu triệu của Bác Hồ có sức mạnh thần kỳ, quân và dân Thủ đô với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã cầm chân quân Pháp đúng hai tháng.

Các đồng chí lãnh đạo Hà Nội và Hải Phòng tham dự buổi ký hết hợp tác, phát triển trong giai đoạn mới

Khúc trang ca ngày về!

Hà Nội 60 ngày đêm ghi dấu những tấm gươm sáng chói, có chiến sỹ như  Lê Gia Định ôm bom cảm tử tại Bắc Bộ Phủ, có em nhỏ như Trương Công Lũy 7 tuổi đã ném lựu đạn giết 3 lính lê-dương…

Họ đã viết lên những trang sử vàng mang hồn sông núi, khí giống nòi Việt Nam.

60 ngày đêm thử lửa, lực lượng vũ trang Hà Nội đã phát triển thành “Trung đoàn Thủ Đô”, mang trong mình lời thề quyết tử: “Ta thề thủ đô sẽ chiến thắng quân thù!”.

Người Hà Nội không kể già hay trẻ, không kể đàn ông hay đàn bà, không kể đảng phái, tôn giáo, dân tộc… như lời dạy của Bác, “thiên đô” lên Việt Bắc, lạc quan trong khúc quân hành “Rồi ngày mai ta sẽ quay về đây, sông Hồng reo sóng đón mừng đoàn quân quay về, vang hát phố phường đỏ thắm say xuân mới, Hà nội ơi!…”, tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ.

Tinh thần Hà Nội đã cùng cả dân tộc thắp sáng rừng hoa ban Tây Bắc, nở rộ trong chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu. Lời “thề thủ đô sẽ chiến thắng quân thù” đã thành hiện thực, ngày 10-10-1954 đoàn quân chân trần áo vải khi xưa đã trở về oai hùng trong cờ hoa chiến thắng.

Gót giày quân viễn chinh Pháp lầm lũi rời Hà Nội, cuốn gói xuống Hải Phòng chờ ngày hồi quốc. Ngày 13-5-1955, đoàn quân chiến thắng tiến về từ các cửa ô tiến vào giải phóng thành phố Cảng, những người lính Pháp cuối cùng bước lên tàu từ bên Nghiêng, mang theo nỗi ô nhục hàng trăm năm không khuất phục được ý chí của dân tộc Việt Nam.

Hải Phòng “đi trước, về sau”, nhưng những trang sử vàng luôn nối liền với Hà Nội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những chuyến tàu hàng của bạn bè từ khắp 5 châu đổ về, vượt qua lưới lửa phong tỏa của bom, đạn, ngư lôi… đổ ra ra tiền tuyến lập công.

Trận không chiến 12 ngày đêm tháng 12-1972, một trong những trận đánh tàn khốc nhất lịch sử chiến tranh thế giới, Hải Phòng- Hà Nội luôn sánh bên nhau, viết tiếp trang sử mới “Điện Biên Phủ trên không”.

65 năm trôi qua, từ trong đổ nát chứa đầy đau thương tang tóc của chiến tranh, sự gắn kết Hải Phòng-Hà Nội vẫn vẹn nguyên như lịch sử vốn thế.

Lê Minh Thắng

Nguồn. ANHP

Tiện ích thông tin
Nguồn tin
QR Code
QR CODE: Kỷ niệm 65 năm giải phóng Thủ đô (10-10-1954/10-10-2019):  Hải Phòng-Hà Nội, reo vang niềm tự hào dân tộc
Chúng tôi trên Mạng Xã hội
QR Code Fanpage
Mã QR Code truy cập vào Fanpage Cổng tin tức Thành phố Hải Phòng
Tin khác