Trước nhu cầu sử dụng dịch vụ thông tin di động ngày càng tăng, các trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS) cũng xuất hiện ngày càng nhiều đặc biệt tại các khu vực đông dân cư, song song đó, số lượng người dân thắc mắc về ảnh hưởng của BTS cũng ngày càng nhiều.
Để hỗ trợ người dân và các tổ chức, cá nhân có thêm thông tin và hiểu rõ hơn về các hoạt động đầu tư xây dựng các trạm BTS và mối tương quan giữa sóng điện từ của các trạm BTS với Sức khỏe con người, Sở Thông tin và Truyền thông xin cung cấp một số nội dung được dẫn chứng từ các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu nghiên cứu của các tổ chức khoa học trên thế giới và tại Việt Nam như sau:
1. Tại sao cần xây nhiều trạm BTS ?
Thời gian trước đây chủ yếu các trạm BTS hoạt động theo công nghệ 2G để cung ứng dịch vụ thoại (nghe, gọi), hơn nửa tỷ lệ thuê bao trên một trạm BTS thấp, do đó đòi hỏi băng thông thấp, và mật độ trạm thưa (vùng đô thị khoảng 500m đến 700m/trạm; vùng nông thôn từ 1000m đến 2000m/trạm). Tuy nhiên thời gian gần đây nhiều ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ nhu cầu truyền tải, truy xuất dữ liệu và nhu cầu giải trí được các nhà sản xuất thiết bị phát triển đã đòi hỏi tốc độ truyền dẫn và băng thông lớn, cộng thêm số lượng thuê bao tăng nhanh khiến các đơn vị nhà mạng phải đầu tư bổ sung thêm nhiều trạm BTS, thu hẹp lại khoảng cách giữa các trạm, để đủ năng lực đáp ứng cho nhu cầu sử dụng dịch vụ của người dân với chất lượng dịch vụ ổn định.
Hiện tại trên địa bàn thành phố có khoảng 2.24.6.116 thuê bao di động và 2.103 trạm BTS của 05 đơn vị nhà mạng (trong đó 97 trạm BTS của GTEL đang ngừng hoạt động – Vĩnh Bảo có 138 trạm), với diện tích của thành phố là 1.562km2, cân đối giữa tỷ lệ thuê bao giữa khu vực đô thị và nông thôn các đơn vị cung cấp dịch vụ đang bố trí mật độ trạm trung bình trong các khu đô thị khoảng 300 đến 400m /trạm/nhà mạng, tại khu vực nông thôn khoảng 1000km/trạm/nhà mạng và trung bình mỗi trạm BTS phải phục vụ cho khoảng 1.120 thuê bao ở cùng một thời điểm.
Để thiết lập và phát triển hạ tầng số, nền tảng số đủ năng lực cho nhiệm vụ chuyển đổi số của thành phố theo Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 26/10/2021 của Ban Thường vụ Thành ủy, Quyết định số 284/QĐ-UBND ngày 24/11/2021 ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU của Ủy ban nhân dân thành phố và trước mắt là bảo đảm thông tin liên lạc, chất lượng dịch vụ viễn thông phục vụ hiệu quả, kịp thời hoạt động chỉ đạo điều hành và công tác phòng, chống dịch của các ngành, các cấp, việc học và làm việc trực tuyến của các tổ chức, cá nhân, theo tính toán sơ bộ, thời gian tới đây các doanh nhiệp cung ứng dịch vụ viễn thông di động cần phải đầu tư bổ sung thêm khoảng 600 trạm trên toàn thành phố.
2. Để đưa trạm BTS đi vào hoạt động cần những điều kiện gì?
Theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Thông tư 07/2020/TT-BTTTT ngày 13/4/2020 quy định về kiểm định thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện và Thông tư 08/2020/TT-BTTTT ngày 13/4/2020 ban hành danh mục và quy trình kiểm định thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện bắt buộc kiểm định thì :
(1) “Đối với thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện thuộc “Danh mục thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện bắt buộc kiểm định”: trước khi đưa thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện vào khai thác sử dụng, tổ chức, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm định”, nếu tuân thủ TCVN 3718-1:2005 thì mới được hoạt động, đồng thời phải đảm bảo các yêu cầu về tiếp đất, chống sét bằng hình thức công bố sự phù hợp (có nghĩa là tất cả các trạm BTS không có trạm nào gây ra mức phơi nhiễm vượt mức giới hạn cho phép 2W/m2 (hoặc 27,5V/m) trong khu vực dân cư sinh sống, đi lại xung quanh trạm phát sóng BTS).
(2) “Đối với các thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện đã được kiểm định: trước ngày hết hạn ghi trên Giấy chứng nhận kiểm định ít nhất sáu mươi (60) ngày các tổ chức, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm định lại theo thủ tục quy định tại Điều 7 của Thông tư này”
(3) “Đối với thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện đã được kiểm định: khi có sự thay đổi thông số kỹ thuật ngoài quy định cho phép hoặc khi có thay đổi công trình xây dựng lân cận dẫn đến mất an toàn phơi nhiễm trường điện từ, Giấy chứng nhận kiểm định đối với thiết bị đó sẽ hết hiệu lực và tổ chức, doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, khắc phục những điểm chưa phù hợp và tiến hành kiểm định lại thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện theo thủ tục quy định tại Điều 7 của Thông tư 07/2020/TT-BTTTT”
(4) “Trong thời hạn ba mươi (30) ngày kể từ ngày thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện được cấp Giấy chứng nhận kiểm định, tổ chức, doanh nghiệp phải niêm yết bản sao Giấy chứng nhận kiểm định tại vị trí dễ nhìn, bên ngoài nhà trạm thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện”
Như vậy người dân có thể nhận biết các trạm BTS đã được kiểm định hay chưa qua việc quan sát thấy hay không thấy niêm yết bản sao Giấy chứng nhận kiểm định tại trạm.
3. Các trạm BTS có ảnh hưởng tới sức khoẻ con người hay không?
Sóng điện thoại di động là sóng điện từ trường, các trạm phát sóng điện thoại di động thường xen lẫn các khu dân cư, vì vậy việc nghiên cứu về ảnh hưởng của sóng điện thoại di động tới sức khoẻ con người ngay từ khi xuất hiện điện thoại di động đã là vấn đề quan tâm không chỉ riêng Việt Nam, mà của hầu hết các nước và nhiều tổ chức quốc tế.
Trên thế giới, tính đến nay có khoảng trên 5 tỷ người dùng điện thoại di động và các mạng di động này đều sử dụng cấu trúc tế bào (cấu trúc tổ ong) có nghĩa là với một khoảng cách nhất định cần có một trạm thu phát sóng (BTS) để phục vụ các máy di động trong khu vực. Đối với quốc tế, các tổ chức quốc tế có liên quan đã tổ chức nghiên cứu và có các văn bản khuyến nghị về vấn đề này, đặc biệt là Tổ chức Y tế Thế giới WHO, Uỷ ban quốc tế về phòng chống bức xạ phi ion hoá (ICNIRP) và Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU). Các nghiên cứu này đều kết luận: “Qua xem xét mức độ phơi nhiễm rất thấp và các kết quả nghiên cứu thu thập tới nay, chưa có bằng chứng khoa học thuyết phục nào cho thấy tín hiệu tần số vô tuyến điện yếu từ các trạm thu phát vô tuyến và các mạng vô tuyến gây ra những ảnh hưởng có hại cho sức khỏe”. Kết quả nghiên cứu cũng xác định mức độ an toàn (gọi là mức phơi nhiễm trường điện từ an toàn) đối với khu vực sinh sống của người dân.
Ở Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3718-2005 “Quản lý an toàn trong trường bức xạ tần số radio – Phần 1: Mức phơi nhiễm lớn nhất trong giải tần 3 kHz đến 300 GHz”. Bộ Thông tin và Truyền thông cũng ban hành quy chuẩn quốc gia QCVN 8:2010/BTTTT “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phơi nhiễm trường điện từ của các trạm gốc điện thoại di động mặt đất công cộng”, Ở Việt Nam hệ thống thông tin di động theo tiêu chuẩn IMT-2020 và các phiên bản tiếp theo được quy hoạch hoạt động ở băng tần 24,25 – 27,5 GHz (hay còn gọi là băng 26 GHz).
Trong quá trình xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3718-2005, Bộ Khoa học và Công nghệ đã giao cho các đơn vị chức năng về phương diện kỹ thuật và công nghệ là: Tổng cục Tiêu chuẩn, Đo lường Chất lượng, các đơn vị nghiên cứu của trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật quân sự và Học viện Bưu chính viễn thông là 3 cơ quan đứng đầu về mặt phát triển công nghệ, các cơ sở nghiên cứu mạnh, nghiên cứu về các kỹ thuật, các thông số của các trạm thu phát sóng và các máy điện thoại di động. Bộ Khoa học và công nghệ cũng giao cho các Viện nghiên cứu khác liên quan đến sức khỏe con người như Viện Y học Lao động vệ sinh môi trường của Bộ Y tế, Khoa Y học vệ sinh môi trường của Học viện quân y, Viện Nghiên cứu kỹ thuật và Bảo hộ lao động của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nghiên cứu những ảnh hưởng tới sức khỏe con người, cũng như tới môi trường, động thực vật, sinh sống và tồn tại. Cho đến nay các nghiên cứu vẫn đang tiếp tục nhưng kết quả ban đầu rất quan trọng cho thấy: Với dải tần số của sóng vô tuyến với công suất của các thiết bị của các trạm thu, phát và các thông số kỹ thuật của các máy điện thoại di động tại Việt Nam hiện nay, chưa có bằng chứng khoa học cụ thể để có thể khẳng định rằng sóng do các trạm thu, phát kể cả các máy điện thoại di dộng từng cá nhân sử dụng, gây ảnh hưởng xấu, có hại đến sức khỏe con người.
Để đảm bảo tính khoa học và độ tin cậy, Bộ Khoa học và Công nghệ đã yêu cầu các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham khảo các tài liệu cũng như là toàn bộ hệ thống tiêu chuẩn của một số tổ chức khoa học công nghệ thế giới và một số nước công nghiệp phát triển. Ví dụ như nghiên cứu các kinh nghiệm và kết luận của Tổ chức Y tế thế giới, của Uỷ ban Quốc tế về phòng chống bức xạ phi ion hoá (ICNIRP), của Hiệp hội điện tử viễn thông của Hoa Kỳ và các tổ chức khác của Nhật, Úc và Liên minh Châu Âu. Kết quả cho thấy toàn bộ hệ thống tiêu chuẩn và tiêu chuẩn của Việt Nam hiện nay phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và thông lệ quốc tế. Qua kết quả nghiên cứu của các cơ quan Việt Nam cho thấy thể chất của người Việt Nam có khác với các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia Châu Âu và Châu Mỹ, cho nên quy chuẩn có khuyến cáo sử dụng những mức độ thấp, tức là tiêu chuẩn cao hơn so với các quốc gia mà thể chất con người lớn và khỏe hơn người Việt Nam.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO kết luận: “Các bằng chứng khoa học hiện nay cho thấy phơi nhiễm trường điện từ của phổ vô tuyến phát xạ từ các máy điện thoại di động và các trạm thu, phát gốc không gây ung thư và không thúc đẩy ung thư phát triển”.
Khi xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn có liên quan đến sức khỏe con người, Bộ Khoa học và Công nghệ chú ý đến các loại bệnh sau: Bệnh thứ nhất là ung thư, trong đó có cả bệnh máu trắng. Loại bệnh thứ hai ảnh hưởng tới hệ tuần hoàn là bệnh tim mạch và bệnh huyết áp. Thứ ba là ảnh hưởng tới hệ thần kinh tức là những cảm giác cảm nhận được như hoa mắt hoặc chóng mặt.
Cơ quan Bảo vệ bức xạ của Úc công bố đánh giá khoa học quốc gia và quốc tế rằng: “Chưa có bằng chứng thuyết phục sự phơi nhiễm trường điện từ do phổ vô tuyến mức công suấp thấp gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người”. Tương tự như vậy cơ quan an toàn sức khỏe môi trường của Cộng hòa Pháp kết luận: “Với sự quan tâm đối với bệnh ung thư xuất hiện chúng tôi chấp nhận mức công suất thấp trong điện thoại di động và mức bức xạ không gây ảnh hưởng đến các mô sống, các thí nghiệm trên động vật phơi nhiễm thời gian dài trong trường sóng điện từ, không gây xuất hiện ung thư hoặc thúc đẩy ung thư phát triển”.
Ủy ban truyền thông Hoa Kỳ đưa ra kết luận: “Không có bằng chứng khoa học về sự liên quan giữa các trạm thu phát gốc BTS với bệnh ung thư và các bệnh khác như đau đầu, choáng váng, hoa mắt hoặc mất trí nhớ”. Uỷ ban bảo vệ sức khỏe Canada khẳng định: “Cho đến nay không có bằng chứng vững chắc chứng tỏ các bức xạ điện từ từ điện thoại di động có ảnh hưởng xấu đến con người”.
Các cơ quan có thẩm quyền của Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển cùng nhất trí rằng “không có bằng chứng khoa học về ảnh hưởng xấu đến sức khỏe do các hệ thống trạm thu, phát sóng di động, các máy cầm tay có công suất dưới mức do Uỷ ban Quốc tế về phòng chống bức xạ phi ion hoá (ICNIRP) khuyến nghị”.
Để đánh giá khả năng ảnh hưởng đến sức khoẻ của sóng vô tuyến nói chung, người ta sử dụng đại lượng SAR (Specific Absorption Rate – Chỉ số hấp thụ đặc trưng) là liều lượng hấp thụ năng lượng vô tuyến tại một khoảng tần số nhất định của một đơn vị khối lượng cơ thể, đo bằng W/kg. Tại Việt Nam, với việc bắt buộc áp dụng Quy chuẩn quốc gia QCVN 8:2010/BTTTT “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phơi nhiễm trường điện từ của các trạm gốc điện thoại di động mặt đất công cộng”, giá trị SAR được quy định là 0,4W/kg. Nếu so sánh giá trị này với các giới hạn của một số tổ chức và một số nước: Uỷ ban quốc tế về phòng chống bức xạ phi ion hoá (ICNIRP) là 2W/kg; Liên minh Châu Âu, Nhật là 2 W/kg; Mỹ, Úc là 1.6 W/kg, thì quy định của Việt Nam nghiêm ngặt hơn nhiều. Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành các Thông tư quy định về kiểm định công trình viễn thông theo đó từng trạm BTS phải được kiểm định, nếu tuân thủ Quy chuẩn trên mới được hoạt động.
4. Người dân cần sống cách trạm BTS bao nhiêu để hạn chế tối đa sự ảnh hưởng của trạm?
Vấn đề không phải là quy định rõ khoảng cách an toàn mà cần đảm bảo nơi nào có sự có mặt của người dân (trừ cán bộ kỹ thuật) thì nơi đó phải an toàn.
Một trạm BTS trước khi đưa vào sử dụng phải được kiểm định tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn an toàn về phơi nhiễm sóng điện từ trường và cấp giấy chứng nhận kiểm định thì trạm BTS đó đủ điều kiện hoạt động và đảm bảo an toàn cho người dân.
5. Hiện nay pháp luật có quy định xử lý như thế nào về việc lắp đặt các trạm BTS không đúng tiêu chuẩn? Người dân cần liên hệ với cơ quan nào để phản ánh về vấn đề này?
Hiện nay, các doanh nghiệp lắp đặt trạm BTS (chính xác là lắp cột anten) theo các hình thức như: lắp đặt trên cột tự đứng độc lập; lắp đặt trên cột cao của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khác như phát thanh, truyền hình hoặc lắp đặt trên nóc các công trình xây dựng có sẵn như của nhà dân, cơ quan…vì thế, sẽ không phù hợp thực tế nếu đưa ra quy định cứng về việc lắp đặt trạm BTS. Trên phương diện quản lý nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý chặt khâu cuối cùng, tức là dù doanh nghiệp lắp đặt trạm BTS ở đâu, theo hình thức nào, thì trước khi đưa trạm BTS vào khai thác, hoạt động phải được kiểm định và cấp giấy chứng nhận kiểm định để đảm bảo an toàn cho người dân.
Bộ đã hướng dẫn các doanh nghiệp cần căn cứ vào các quy định, nghiên cứu và ban hành Quy trình xây dựng và hoàn thiện trạm thu phát sóng thông tin di động, bao gồm cả việc xử lý khi có các khiếu kiện của người dân.
Trước khi doanh nghiệp đưa trạm BTS vào khai thác, sử dụng thì doanh nghiệp phải tiến hành thủ tục kiểm định cho trạm BTS đó. Nếu trạm BTS vi phạm quy định về an toàn bức xạ điện từ trường thì doanh nghiệp phải tiến hành khắc phục, trường hợp không thể khắc phục được thì theo quy định doanh nghiệp phải dừng hoạt động trạm BTS này hoặc di dời sang vị trí khác.
Người dân có thể thông qua chính quyền địa phương, phòng văn hóa các quận, huyện để liên hệ với Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông hoặc Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông quan để phản ánh vấn đề trên. Các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý về tiêu chuẩn, chất lượng, kiểm định an toàn bức xạ điện từ trường là Vụ Khoa học Công nghệ và Cục Viễn thông.