Trong bài viết này, người viết chưa đủ điều kiện thống kê số liệu về sự tồn tại các xưởng gia công ngoài luồng trên địa bàn, vì thực ra đã là “chui” là “lậu” thì số liệu cũng khó mà chính xác. Nhưng có thể khẳng định, đây không phải là mô hình sản xuất tích cực, cho dù có được hợp thức hóa thủ tục chăng nữa cũng không nên khuyến khích.
Bởi trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang cần chuyển dịch đầu tư từ chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao chất lượng công nghệ, tiết kiệm năng lượng, bảo đảm sạch môi trường… theo quan điểm mà Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12, cũng như đại hội 15 đảng bộ thành phố đã đề ra.
Như đã đề cập ở kỳ trước, một số ý kiến cho rằng mô hình này giải quyết được bài toán về lao động nông thôn? Trao đổi với một cán bộ chuyên ngành về công nghiệp, được biết điều đó chỉ mang tính cục bộ, vì bản chất các mô hình này nằm trong hệ thống vệ tinh mở rộng đầu tư, nhưng khác là được ngụy tạo né tránh quản lý và tiết kiệm chi phí, thay cho việc đầu tư tập trung.
Nghĩa là, theo tính toán cơ học, nếu sản lượng hàng hóa không thay đổi thì quy gọn những mô hình này vào một khu công nghiệp việc sử dụng lao động cũng không thay đổi, vì đặc thù ngành nghề thủ công. Trong khi đó, giả như đưa được các nhà sản xuất vào đầu tư tập trung, việc thực hiện các chỉ tiêu quản lý sẽ đem lại một nguồn lợi không nhỏ cho ngân sách, không chỉ các quyền lợi cho người lao động được đảm bảo hơn, mà các tác động khác như an toàn, an ninh, môi trường đều được chú trọng hơn.
Cụ thể, theo tính toán của một chuyên gia ngành giày, để có một một nhà máy sản xuất ổn định cho 1.000 lao động, tổng chi phí bình quân cho mỗi lao động khoảng 500 USD/người/tháng. Như vậy, thực tế các chủ xưởng chui thuê thẳng công nhân gói gọn khoảng 200 USD/người/tháng, còn lại 200 USD thất thoát vào quy trình đầu tư, mà lẽ ra một phần lớn trong đó thuộc về nhà nước, cũng như chính người lao động.
Mặt khác, bản chất của “cai” lao động là nhận mối một giá, thuê gia công một giá, tiết kiệm càng nhiều hưởng lợi càng lớn. Chưa kể khi công ty mẹ “cắt’ việc, thì nhất thời các xưởng cùng máy móc sẽ trở thành vô dụng vì người lao động cũng không làm chủ công nghệ. Đây là bài học đắt giá Hải Phòng đã gặp phải, khi chúng ta còn gia công cho Liên Xô và Đông Âu, mà nên nhớ đó là các mô hình chính quy mang cấp độ nhà nước.
Phân tích sâu hơn, vì là dạng hình “đa không” nên các xưởng gia công chui lậu cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an ninh trật tự. Chắc chắn nhiều người không thể quên được vụ hỏa hoạn kinh hoàng làm 38 người thương vong ở xưởng gia công mũ giày tại xã Tân Dân (An Lão) cách đây 8 năm. Khi vụ việc xảy ra bản thân các chủ xưởng ngoài việc vướng vào vòng lao lý, không thể khắc phục nổi hậu quả vì không có khả năng tài chính, hệ quả là gia đình nạn nhân và xã hội phải gánh chịu.
Hay ở một vụ cháy lớn xảy ra cách đây vài năm trên địa bàn quận Dương Kinh, dù không thiệt hại về người, nhưng chỉ khi vụ việc phát sinh nhà quản lý mới phát hiện ra bản chất đây là cơ sở gia công có nhiều sai phạm, nhất là về mục đích sử dụng đất và hợp đồng kinh tế.
Tuy nhiên, làm thế nào để đủ điều kiện? Chỉ nói như việc sử dụng đất, hầu hết các cơ sở hiện đều sử dụng sai mục đích từ đất nông nghiệp, đất nhà ở hoặc thuê lại công sở cũ, nằm giữa khu dân cư, các hợp đồng thuê mướn thực hiện ngoài vòng pháp luật. Việc sử dụng điện cũng từ nguồn dân sinh, gần như không cơ sở nào có trạm điện riêng, chưa nói đến việc đầu tư hệ thống xử lý nước thải, rác thải công nghiệp, các điều kiện về bảo hộ bảo hiểm an toàn khác…
Tóm lại, rất ít cơ sở nếu không nói là tất cả, có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu về quản lý. Cũng có nghĩa đây là mô hình hoạt động vi phạm nhiều quy định của pháp luật, mà đã là phạm pháp thì không có lý do để tồn tại. Trong khi nhiều doanh nghiệp hoạt động nghiêm chỉnh đang thiếu lao động, thì một lực lượng lao động lại được “ghìm” trong các mô hình phi pháp, thành ra một bài toán lẩn quẩn.
Vấn đề là tại Hải Phòng, việc dẹp bỏ mô hình gia công như vậy trước mắt sẽ gây khó khăn cho một bộ phận người lao động. Hoặc cho những địa phương còn rất yếu về công nghiệp như Kiến Thụy, Tiên Lãng, một số xã của các huyện An Lão, Vĩnh Bảo… Cũng là những nơi mà để có việc làm tại các nhà máy lớn, người lao động phải di chuyển trên quãng đường khá xa, dở dang giữa ở trọ hay cơ động, điều này rất cần chính sách hoạch định của thành phố.
Bên cạnh đó, ngoài việc rà soát siết chặt hoạt động, thì tại các nhà máy lớn cần phải đề cao hơn nữa điều kiện làm việc, sinh hoạt cho người lao động, không những để nâng cao chất lượng quản lý, mà người lao động cũng yên tâm hơn.
Về “cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh”, điều cần thiết là phải tạo ra môi trường ngày càng bình đẳng, để giữ gìn cũng như thu hút các nhà đâu tư có tiềm lực, có ý thức đóng góp cho nhà nước và xã hội.
Lê Minh Thắng