Print Thứ Ba, 19/02/2019 10:35

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi, có truyền thống giao lưu lâu đời, với nhiều nét văn hóa tương đồng gắn bó sâu sắc. Đặc biệt phải khẳng định rằng, trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của Việt Nam, Đảng và nhân dân Trung Quốc đã có sự ủng hộ giúp đỡ to lớn…

Thực hiện lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước, tuổi trẻ Việt Nam lên đường bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ Quốc (ảnh tư liệu)

Tuy nhiên, sau khi Việt Nam giành được thống nhất năm 1975, diễn biến nội vùng cũng như thế giới có nhiều thay đổi, với những tác động ngoại lai trong bối cảnh chúng ta còn chưa kịp hàn gắn vết thương chiến tranh, phía Trung Quốc đã thể hiện nhiều động thái thù địch, nhất là phản ứng trước việc Việt Nam giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Polpot.

Tại khu vực biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động quân sự, khiêu khích vũ trang, xâm lấn đất đai (từ 234 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, tăng lên 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978), gây tình hình căng thẳng. Trước diễn biến ngày càng phức tạp ở biên giới phía Bắc, tháng 12-1978, Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khóa IV) họp, ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh “sẵn sàng mọi mặt công tác chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra”. Tiếp đó, ngày 6-1-1979, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Về việc tăng cường chiến đấu ở các tỉnh phía Bắc, nêu rõ: “Gấp rút đẩy mạnh công tác sẵn sàng chiến đấu ở các địa phương trên toàn tuyến biên giới, bảo đảm sẵn sàng đánh bại địch ngay từ đầu trong bất kỳ tình huống nào”. Hai ngày sau, ngày 8-1-1979, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị sẵn sàng chiến đấu, nêu rõ: “Tất cả các quân khu, quân chủng, binh chủng, đặc biệt là Quân khu 1, Quân khu 2 và các tỉnh biên giới phía Bắc, các quân chủng: Phòng không, Không quân, Hải quân phải ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất…”.

Bất chấp nỗ lực giải quyết căng thẳng bằng con đường hòa bình của ta, dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền Trung Quốc, từ 3h30 ngày 17-2-1979, quân Trung Quốc mở cuộc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.400km. Sử dụng pháo binh bắn phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động lực lượng lớn (hơn 600 nghìn quân) tiến công sang lãnh thổ Việt Nam. Hướng tiến công chủ yếu là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai; hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là Quảng Ninh và Hà Giang.

Nữ dân quân Việt Nam quản thúc tù binh Trung Quốc (ảnh tư liệu)

Ngày 18-2-1979, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của nhà cầm quyền Trung Quốc, trong đó kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, triệu người như một, nhất tề đứng dậy quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, sử dụng lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 chiến đấu và điều động một bộ phận lực lượng của các quân khu, các tỉnh phía sau lên tăng cường. Điển hình là Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và điều động Sư đoàn Bộ binh 327 (Quân khu 3), Sư đoàn 337 (Quân khu 4) cơ động lên Quân khu 1; điều động 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương TP Hà Nội lên mặt trận Lạng Sơn, 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương Hải Phòng đến mặt trận Quảng Ninh và 3 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Hà Sơn Bình lên mặt trận Hoàng Liên Sơn. Ngoài ra, đầu tháng 3-1979, Quân đoàn 2 nhanh chóng chuyển toàn bộ lực lượng từ Campuchia về tập kết ở khu vực phía Bắc Hà Nội bí mật, an toàn, sẵn sàng bảo vệ biên giới phía Bắc.

Về phía Trung Quốc, tính đến đầu tháng 3-1979, trên dọc tuyến biên giới phía Bắc, đối phương đã chiếm được các thị xã: Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, Cam Đường, Phố Lu, Sa Pa và một số thị trấn trên vùng biên giới. Nhằm ngăn chặn sự mở rộng tiến công xâm lược của Trung Quốc, ngày 5-3-1979, Chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên lực lượng để bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, hàng triệu người ở hầu khắp các tỉnh, thành phố đã tình nguyện đăng ký gia nhập lực lượng vũ trang, ra mặt trận, lên tuyến trước xây dựng trận địa chống quân thù. Nhiều đoàn viên, thanh niên ở Hà Nội và các địa phương khác đã viết đơn tình nguyện lên biên giới để được trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Chấp hành Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, trên hai hướng Quân khu 1 và Quân khu 2, toàn quân và toàn dân đã tích cực chuẩn bị, tăng cường tổ chức lực lượng, củng cố và xây dựng thêm một số đơn vị, sẵn sàng chiến đấu, tập trung cho phản công đánh bật quân Trung Quốc ra khỏi biên giới Tổ quốc. Trước những tổn thất lớn về lực lượng và bị dư luận quốc tế phản đối mạnh mẽ, ngày 5-3-1979 Trung Quốc tuyên bố rút quân. Với truyền thống nhân nghĩa và lòng mong muốn củng cố hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân hai nước, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam chỉ thị cho các lực lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc ngừng mọi hoạt động tiến công quân sự để Trung Quốc được yên ổn rút toàn bộ lực lượng và phương tiện chiến tranh về nước. Đến ngày 18-3-1979, trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, quân Trung Quốc đã rút khỏi đất Việt Nam.

Ngày 7-3-1979, Báo Nhân Dân đăng Xã luận nêu rõ thắng lợi của quân và dân ta, trong đó nhấn mạnh: “Bọn xâm lược không thể đùa giỡn với ý chí của chúng ta, càng không thể đùa giỡn với sức mạnh bách chiến bách thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta”. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc (tính từ ngày 17-2 đến 18-3-1979), quân và dân ta đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự… của đối phương.

Kể từ cuộc chiến quy mô lớn do Trung Quốc phát động tháng 2-1979, thời gian sau đó xung đột giữa hai nước trên vùng biên giới kéo dài thêm 10 năm, có những điểm nóng vô cùng ác liệt mà điển hình như Vị Xuyên (Hà Giang cũ), đã gây ra tổn thất nặng nề trên mọi phương diện cho cả hai bên. Sự kích động thù hận và cái giá của chiến tranh đã hiện rõ, càng cho thấy chỉ có hòa bình, ổn định mới thực sự đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân hai nước. Chính vì vậy từ năm 1991, quan hệ hai nước đã được cải thiện, bằng việc nối lại bình thường hóa, mở ra trang sử mới trên tinh thần hữu nghị và láng giềng thân thiện.

40 năm đã qua, chúng ta nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc năm 1979 là dịp để tôn vinh, tri ân những người đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đồng thời để giáo dục cho thế hệ trẻ trách nhiệm đối với dân tộc, chúng ta kiên quyết không kích động hận thù, nhưng cũng không quên truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường và quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Để từ đó, tiếp tục nhìn lại quá khứ, mở ra tương lai,  phấn đấu vươn lên xây dựng một Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời.

Hoàng Minh

Nguồn. ANHP

Tiện ích thông tin
Nguồn tin
QR Code
QR CODE: 40 năm cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc (1979-2019):  Nhìn lại quá khứ để rộng mở tương lai
Chúng tôi trên Mạng Xã hội
QR Code Fanpage
Mã QR Code truy cập vào Fanpage Cổng tin tức Thành phố Hải Phòng
Tin khác